Ngày
15-5-2012, nhân kỷ niệm 121 năm Thông điệp Rerum Novarum (Tân Sự) của Đức Giáo Hoàng Lê-ô XIII, ủy Ban Công lý và Hòa bình /
HĐGM Việt Nam đã
công bố bản Nhận định về một số tình hình tại Việt Nam hiện nay. Trong phần mở đầu, ủy Ban nói rõ lý do công bố Nhận định: "Thư
chung hậu Đại hội Dân Chúa năm 2010 mời gọi tất cả các thành viên của Giáo Hội Công giáo tại Việt Nam cố gắng nhận diện và phân định “hiện trạng xã hội Việt Nam dưới ánh sáng đức tin”. Chính trong viễn tượng đó, ủy ban Công lý và Hòa bình thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam muốn bày tỏ một vài thao thức, suy nghĩ và nhận định về tình hình Đất nước, vừa với tư
cách công dân, vừa với tư
cách Kitô hữu."
NHẬN ĐỊNH
VỀ MỘT SỐ TÌNH HÌNH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
Chủ trương đổi mới đã giúp Việt Nam hòa nhập vào
dòng chảy chung của nhân loại và đưa đất nước từ một nền kinh tế nghèo nàn đến một trong những nước có
tăng trưởng kinh tế cao nhất châu á. Tiến trình hội nhập được cụ thể hóa qua việc Việt Nam trở nên
thành viên của khối ASEAN, tham gia APEC, gia nhập WTO.
Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ ngoại giao
với nhiều quốc gia, tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế và thu hút đầu tư của nhiều tập đoàn nước
ngoài. Xã hội ngày càng trở nên năng động,
sáng tạo và nhìn chung có vẻ giàu có hơn. Nhưng tình
hình gần đây cho thấy nền kinh tế Việt Nam
đang mất định hướng, thiếu tính bền vững và nhân bản, vì đổi mới kinh tế không
song hành đổi mới chính trị, cũng như tăng trưởng kinh tế không nối kết với phát triển xã hội và phát triển con người toàn
diện.
Thư chung
hậu Đại hội Dân Chúa năm 2010 mời gọi tất cả các thành viên của Giáo
Hội Công giáo tại Việt Nam cố gắng nhận diện và phân định “hiện trạng xã hội Việt Nam dưới ánh sáng đức tin”. Chính trong viễn tượng đó, ủy ban Công lý và Hòa bình thuộc Hội đồng Giám
mục Việt Nam muốn bày tỏ một vài thao thức, suy nghĩ và nhận định về tình
hình Đất nước, vừa với tư cách công dân, vừa với tư cách Kitô hữu.
1. Nền kinh tế Việt
Nam
Sau gần hai
thập niên đạt tăng trưởng kinh tế cao, Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có
thu nhập thấp nhất, nhưng tình trạng mấy năm gần đây cho thấy nền kinh tế Việt Nam
đang bộc lộ những nguy cơ nghiêm trọng, tác động trực tiếp đến cuộc sống của người dân và tương lai của đất nước. Biểu hiện rõ nhất là quản lý kinh tế yếu kém, các tập đoàn
Nhà nước thua lỗ nặng, doanh nghiệp phá sản càng nhiều ngân
hàng lãi càng lớn, lạm phát tăng cao, chênh lệch giàu nghèo nới rộng, chất lượng cuộc sống của đại đa số dân
chúng giảm sút, nhiều người rơi trở lại tình trạng nghèo trước đây… Phải chăng
mô hình kinh tế hiện tại đang làm giàu cho nhóm đặc lợi hơn là cho toàn dân?
Định hướng kinh
tế lấy quốc doanh làm chủ đạo đã tạo ra độc quyền và lạm quyền, làm méo mó sự vận hành cần có của nền kinh
tế thị trường. Doanh nghiệp nhà nước đóng góp ít vào tăng trưởng kinh
tế nhưng lại nhận nhiều đặc quyền đặc lợi, gây bất công và kìm hãm sự phát triển của khối tư nhân.
Nợ nước ngoài và thâm thủng mậu dịch đã và đang gia tăng khiến nền kinh
tế bị suy yếu và lệ thuộc. Lạm phát gia tăng cũng làm tăng đói nghèo, gây khó khăn hơn cho
cuộc sống của người dân và cả các doanh nghiệp. Đình công tiếp tục tăng
cao chứng tỏ quyền lợi của công nhân chưa được bảo vệ thỏa đáng. Một số chủ trương
không hợp lòng dân mà vẫn được Nhà nước tiến hành như vụ khai
thác bô-xit Tây Nguyên hoặc dự án xây nhà máy điện hạt nhân ở tỉnh Ninh Thuận.
2. Luật đất đai
Luật đất đai
hiện hành, vừa đi ngược tự nhiên, vừa không tôn trọng Tuyên ngôn quốc tế về nhân
quyền. Đó là nguyên nhân của khoảng 80% các khiếu kiện trong
nước. Các vụ khiếu kiện này đã đi từ khiếu nại cá nhân đến khiếu kiện tập thể; từ khiếu kiện bằng đơn từ đến tập họp phản đối và
nay là dùng vũ khí chống lại việc thu hồi đất.
Luật đất đai
qui định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhưng do Nhà nước quản lý đã
làm cho hàng triệu người cảm thấy mất đất và chẳng có quyền tự do hành xử trên “mảnh đất ông bà tổ tiên”. Trên thực tế, sở hữu toàn dân không phải là phương thức quản lý đất đai tốt nhất, còn
việc Nhà nước làm chủ sở hữu đã phát sinh đặc quyền, đặc lợi của chính quyền các cấp trong
việc quy hoạch và thu hồi đất cho các dự án, tước mất quyền căn bản của người dân.
Vấn đề gây bức xúc
nhiều nhất trong việc thu hồi đất là giá đền bù. Muốn giải quyết tranh chấp về giá đền bù giữa người bị thu hồi đất và cơ quan chức năng hoặc các nhà đầu tư, thì phải làm
sao để người bị thu hồi đất được đền bù ngang giá với tài sản của họ bị trưng dụng và cuộc sống của họ phải tốt đẹp ngang
hay hơn trước khi bị trưng dụng. Vì giá đất tăng gấp bội sau
khi quy hoạch, nên người bị thu hồi đất cần được chia phần sự chênh lệch giá cả này bằng nhiều cách khác nhau. Điều cần thiết là nên cấp tốc sửa đổi Luật đất đai để người dân được quyền sở hữu đất và hạn chế tối đa quyền thu hồi đất của các cấp chính quyền.
3. Môi trường xã hội
Xã hội Việt Nam đang bộc lộ nhiều hiện tượng rất đáng quan ngại. Nổi bật nhất vẫn là hai tật xấu đã được Hội đồng Giám mục Việt Nam cảnh báo từ năm 2008, đó là gian dối và bạo lực. Chúng không những phô
bày nơi đường phố, trên thương trường và các phương tiện thông tin đại chúng, mà còn xâm nhập vào
công sở và học đường. Dư luận đang bức xúc vì hiện tượng lạ lùng là tại một số nơi, cơ quan công quyền lại sử dụng bạo lực phi pháp để giải quyết các khiếu kiện dân sự.
Bên cạnh những tệ nạn đang tác hại xã hội Việt Nam hôm nay, nhiều người âu lo vì khuynh hướng
sống hưởng thụ, chụp giựt, coi trọng đồng tiền, vô cảm trước nỗi đau của đồng loại… Hiện tượng này chứng tỏ tình trạng thiếu vắng các giá trị đạo đức nền tảng làm chuẩn mực cho đời sống xã hội, vì vậy một số người đã cảnh báo về một xã hội lệch chuẩn hay phi chuẩn.
Tham nhũng
đã được coi là đại họa của quốc gia, ngày càng tinh vi và nghiêm trọng hơn, nhưng cho đến nay chưa một vụ án nào xứng tầm được đưa ra xét xử để răn
đe, làm giảm sút niềm tin của người dân nơi công quyền.
Các vụ khiếu kiện, chủ yếu liên
quan đến đất đai, trong đó có đất tôn giáo, vẫn tiếp diễn phức tạp và ngày càng trầm trọng, gây bất an và căng thẳng xã hội. Vụ việc ở Tiên
Lãng, Hải Phòng, và Văn Giang, Hưng Yên, gây xúc động mạnh mẽ trên tất cả những người Việt Nam có tâm huyết, buộc Nhà nước phải nhìn lại cách giải quyết vấn đề, mà cốt yếu là sửa đổi Luật đất đai về mặt hạn điền, thời hạn sử dụng đất và giá đền bù…, nếu chưa đi đến chỗ nhìn nhận quyền tư hữu chính đáng của công dân.
Một yêu cầu cấp bách khác là cần thay
đổi lề lối làm
việc cửa quyền, không minh bạch và thiếu
chuyên môn của cán bộ. Biểu hiện rõ rệt nhất ở sự áp đặt của Nhà nước về quan điểm và cách sống trong xã hội, đó
là sự phân biệt đối xử trong chính sách công giữa các cá nhân làm việc cho
Nhà nước với các doanh nhân và người lao động tự do, giữa người dân thành thị và người nhập cư ngoại tỉnh.
4. Lĩnh vực pháp luật
Hiến pháp
và pháp luật của mỗi quốc gia phản ánh tính đặc thù và cá biệt theo
truyền thống văn hóa dân tộc mình, nhưng cũng
không vì thế mà bất chấp những chuẩn mực pháp lý quốc tế. Việt Nam có một hệ thống pháp
luật đồ sộ, nhưng không hiệu quả từ lập pháp đến hành
pháp, vì thiếu sự công khai, minh bạch, và nhất là
thiếu sự độc lập về tư pháp.
Việc áp dụng luật pháp
chưa nghiêm minh và tùy tiện, nhất là ở cấp địa phương, đã dẫn đến những oan sai và
đôi khi đẩy người dân đến bước đường cùng. Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định các thủ tục bắt người; vậy mà trong một số trường hợp, vẫn có các công dân bị bắt sai
trái với các quy định của bộ luật ấy, cũng như với các
tuyên ngôn và công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Việc giam
giữ người không qua xét xử được che đậy dưới từ ngữ “đưa vào cơ sở giáo dục” có thời hạn và áp
dụng cho những người bày tỏ sự bất đồng chính kiến là một hình thức vi phạm quyền cơ bản của con
người. Hình thức “giáo dục” này thực ra là
một biện pháp mà thực dân Pháp sử dụng ở nước ta,
sau đó được lập lại bằng Nghị quyết 49/NQ-TVQH ngày 20/6/1961 của ủy ban
Thường vụ Quốc hội và đã là cơ sở pháp lý cho việc tập trung
cải tạo các công chức và quân nhân chính quyền Miền Nam
cũ. Sau này có một chuyển biến tốt đẹp về biện pháp này khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính ban hành năm 1989 không sử dụng nó nữa. Nhưng với Pháp lệnh năm 1995, nó lại được tái lập dưới cái tên hiện nay
và được Pháp lệnh năm 2002 nối tiếp. Hy vọng trong lần ban hành tới về xử lý vi phạm hành
chính, kiểu “giáo dục” ấy sẽ được bãi bỏ.
Căn bệnh trầm kha
trong quản lý và điều hành của các cấp chính quyền chỉ được giải quyết khi Việt Nam
xây dựng một Nhà nước pháp quyền thực sự và hình thành một xã hội công
dân năng động. Bất chấp những khó khăn hiện tại, đây là một xu thế không
thể đảo ngược.
5. Biên cương, hải đảo
và chủ quyền quốc
gia
Vào những thập niên
cuối cùng của thế kỷ XX, Biển Đông đã một vài lần nổi sóng. Nhưng
trong những năm gần đây, sự căng thẳng đã lên đến mức độ nguy hiểm. Nhà
cầm quyền Trung Quốc một mặt dùng lời lẽ hoa mỹ, với thông điệp rất êm tai, nhưng mặt khác, các hành động của họ về chủ quyền trên
Biển Đông ngày càng phản ánh rõ rệt chủ trương Đại Hán.
Trong khi
đó, bên Việt Nam, phản ứng của Nhà nước xem ra quá yếu ớt, tạo cớ cho các lực lượng thù
nghịch lấn tới. Khó hiểu hơn nữa là việc chính quyền đã mạnh tay đàn áp các tổ chức và
các cá nhân yêu nước phản đối hành động xâm lược trắng trợn. Thái độ lập lờ, thiếu nhất quán của các nhà lãnh đạo trong vấn đề phân định lãnh
thổ vùng biên giới và bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông đang gây bất bình
trong dư luận. Nhiều nhân sĩ và các nhà trí thức tâm
huyết đã lên tiếng cảnh báo những nguy
cơ về an ninh quốc gia do một số dự án cho
nước ngoài khai thác bô-xít và thuê đất, thuê
rừng. Mặt khác, các thông tin về lĩnh vực này không đầy đủ, chậm chạp và
thiếu công khai. Điều trước mắt đã xảy ra là “lao động phổ thông”
nước ngoài ồ ạt vào Việt Nam để thực hiện các dự án trên đang gây bất ổn cho xã hội hiện tại và về lâu
dài.
6. Môi trường sinh thái
Theo dự báo của các cơ quan
chuyên môn, Việt Nam sẽ là một trong bốn nước phải gánh chịu hậu quả nghiệt ngã nhất của biến đổi khí hậu. Nguyên nhân một phần do tác độ#ng của biến đối khí hậu toàn
cầu, nhưng một phần khác do chúng ta thiếu quan tâm đến môi trường sinh
thái và tính bền vững trong phát triển.
Điều đáng
quan ngại nhất là chúng ta vụng về và vội vàng trong khai thác tài nguyên. Những năm
gần đây Nhà nước đã cho nước ngoài
đầu tư nhiều dự án có nguy cơ hủy hoại môi trường,
thay đổi hệ sinh thái và làm biến đổi khí hậu: khai
thác bô-xit tại Tây nguyên, cho thuê rất nhiều khu rừng đầu nguồn thuộc 18 tỉnh từ Bắc chí Nam, rất nhiều tỉnh đã
khoanh biển và bờ biển cho các công ty ngoại quốc thuê để xây
khách sạn, lập bãi tắm hoặc các dự án khác, mà không quan tâm đến môi
trường sinh thái.
7. Vai trò của Trí thức
Gần 1000
năm trước, cùng với việc thành lập Quốc Tử Giám, tổ tiên chúng ta đã nhận thức sâu sắc rằng: “Hiền tài là nguyên khí của
quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế
nước mạnh mà hưng thịnh,
nguyên khí suy thì nước yếu
mà thấp hèn” (Bia Văn Miếu). Điều này vẫn luôn đúng và càng đúng hơn cho kỷ nguyên
chất xám, thời đại của nền kinh tế tri thức hôm nay.
Bỏ ra
ngoài hiện tượng gia tăng đột biến số lượng các tiến sĩ mà
chất lượng còn đáng nghi ngại, Việt Nam còn khá nhiều hiền tài
đích thực, những trí thức thực tài và có tâm huyết với nước, với dân. Chỉ tiếc rằng vai
trò của họ chưa được coi trọng, có khi còn bị gạt ra bên lề hoặc bị kỳ thị, mà
nguyên nhân, trong nhiều trường hợp, chỉ là do sự khác biệt về quan điểm đánh giá hiện thực xã hội hoặc về tầm nhìn tương lai
của Dân tộc. Phải chăng cơ chế Nhà nước bất cập và chưa đủ mở rộng để thu hút người tài, cũng như chưa cải tổ cho
phù hợp với đòi hỏi của xã hội tân tiến? Bao giờ vai trò của xã hội dân sự được nhìn nhận và thực sự có cơ hội tích cực góp phần xây dựng đất nước?
8. Giáo dục và Y tế
Tương lai
của Dân tộc tùy thuộc phần lớn vào giáo dục. Không thể phủ nhận rằng nền giáo
dục quốc gia đã sản sinh một số nhân tài và góp phần vào việc phát triển Đất nước. Nhưng nhìn
chung, trong mấy thập niên qua, nền giáo dục của chúng
ta có quá nhiều bất cập về nội dung, phương pháp dạy và học… Việt Nam đã có nhiều nỗ lực “cải cách giáo dục” nhưng
không đi đến những đột phá thực chất. Vì sao? Phải đau đớn mà
nói rằng vì chúng ta thiếu hẳn một triết lý giáo dục mang
tính nền tảng và chiến lược lâu dài.
Hậu quả thê thảm của thực trạng trên
là những gì chúng ta đang nhìn thấy trước mắt: Gia tăng các tệ nạn khủng khiếp trong
học đường, tội phạm tuổi học sinh sinh viên ngày càng nhiều, gian dối trong
thi cử trở thành bình thường, bằng cấp giả hay nguy hiểm hơn nữa, bằng cấp thật mà kiến thức giả. Kết quả cay đắng là Đất nước có
nguy cơ bị tụt hậu về nhiều phương diện.
Nhờ áp dụng các
công nghệ mới, y tế Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được một số thành
tựu trong việc khám chữa bệnh và y tế dự phòng. Nhân viên y tế ngày càng được đào tạo bài bản và có
chuyên môn cao hơn. Nhưng do hệ quả của nền giáo dục nói trên, cũng như khuynh hướng tập trung
vào sức khỏe thể chất và thiếu định hướng y tế toàn diện, nên hệ thống y tế đang bị sa lầy. Bên cạnh tình trạng quá tải trầm trọng tại các bệnh viện Trung ương và việc tăng viện phí ảnh hưởng mạnh tới người nghèo, dư luận nói nhiều đến sự vô cảm, nhũng nhiễu, thiếu trách nhiệm và phẩm chất đạo đức của nhân viên y tế…
Nhà nước đã
kêu gọi “xã hội hóa” giáo dục và y tế, thiết tưởng nên
tạo điều kiện để các tôn giáo trong nước được tham gia trực tiếp vào
hai lĩnh vực này.
9.Lĩnh vực tôn giáo
Trong thời gian
qua, nhà cầm quyền đã tạo cơ hội thuận tiện cho các sinh hoạt tôn giáo, hầu hết các cơ sở tôn
giáo bị tàn phá trong thời chiến tranh đã được trùng
tu, nhiều cơ sở mới đã và đang được xây dựng. Tuy nhiên, qui định pháp
luật liên quan đến các tôn giáo vẫn còn
nhiều bất cập và chưa đáp ứng được nguyện vọng của các tín đồ, cụ thể nhất là về tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn
giáo. Điểm mấu chốt là các tôn giáo đã được nhìn nhận, nhưng lại chưa có tư cách
pháp nhân, nên không thể thực thi và bảo vệ các quyền hiến định của mình, như các tổ chức xã hội và nghề nghiệp khác.
Hiện nay,
Nhà nước dự định ban hành một Nghị định “Quy định chi
tiết và biện pháp thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín
ngưỡng tôn giáo”, thay thế Nghị định số 22/2005/NĐ – CP ngày
01-03-2005. Thật đáng hoan nghênh nếu văn bản này được soạn thảo trên tinh thần đổi mới, thực sự cầu thị để tạo thuận lợi cho
tín đồ các tôn giáo được tự do hoạt động, góp phần vào
việc phục vụ đồng bào và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng một số người đang băn khoăn vì sợ văn bản này lại là một bước thụt lùi,
so với Nghị định nêu trên. Câu hỏi nền tảng là bao giờ các
công dân có tôn giáo được đối xử bình đẳng với các công dân khác, theo Hiến pháp và Dân luật, mà
không cần đến một Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn giáo nữa?
* * *
Những nhận định trên
đây phát xuất từ niềm tin Kitô giáo và trách nhiệm công dân với ước nguyện góp
phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng một đất nước phát triển vững bền, dân
chủ và nhân ái. Trong vấn đề này, huấn từ của Đức Giáo
hoàng Bênêđictô XVI, ngày 27-06-2009, với các Giám mục Việt Nam vẫn là định hướng căn
bản của ủy ban Công lý và Hòa bình: “Giáo Hội không hề muốn thay thế Chính quyền, nhưng chỉ mong rằng trong tinh thần đối thoại và hợp tác tôn trọng nhau, Giáo Hội có thể góp phần mình vào đời sống của đất nước, nhằm phục vụ tất cả mọi người dân”.
Ngày 15
tháng 5 năm 2012,
kỷ
niệm 121 năm Thông điệp
Rerum Novarum (Tân Sự)
UY BAN CÔNG
Lý & HòA BìNH/ HĐGMVN
No comments:
Post a Comment