Thursday, July 10, 2008

DU LỊCH - CHÍNH TRỊ - TÔN GIÁO


Đang làm báo cáo chiến lược phát triển ngành Du lịch.

Lọ mọ tìm thấy một bài báo viết về du lịch đầy những nghịch lý logic.

Từ đó lại ngồi suy nghĩ sâu hơn. Nhớ người bạn là Quan chức cộng sản có một trang trại đẹp, có lần rủ mình về ngồi ở đó nói chuyện chính trị. Giữa tiếng gió ngàn hoang sơ, ông ấy bảo nhớ tiếng ồn của phố, nhớ thuốc lá 3 số và bia lạnh.

Lại miên man suy nghĩ về độc tài và dân chủ. Cái nào là nền của cái nào. Có lần một linh mục đã nói với mình: “Cộng sản là cái roi Thiên Chúa đưa xuống loài người quất vào chúng ta, răn đe chúng ta đi theo đường Thiên Chúa”.

Nhưng dù sao, bài viết sau đây về du lịch, nhờ sự tự do về ngôn luận đã cung cấp cho chúng ta một cách nhìn khác, khá thú vị.

_____________________________________________

Du lịch là ích kỷ!



Du lịch chân chính không phải là những anh bụng phệ hàng tuần kéo nhau ra Tuần Châu ăn hải sản, uống bia và “du lịch”, không phải những cô váy ngắn bốt cao xúm xít quanh đống thổ cẩm “lạ mắt” dưới gầm nhà sàn Bản Lác, không phải một đại đội các bác đội mũ lưỡi chai giống nhau, chen chúc chạy đằng sau một anh cầm cờ trên cầu Thê Húc. Như vậy là nghỉ dưỡng,là dưỡng gìa,hay cực đoan hơn : là đú đởn!


Du lịch chân chính là những người lữ hành không mỏi trên con đường ít dấu chân người qua, là những kẻ lang thang ngày qua ngày trên những dãy núi trùng điệp, những khu rừng già ẩm ướt hay những bản làng hẻo lánh, là những kẻ thích tự làm khổ mình, thích đẩy mình vào tình thế khó khăn nguy hiểm, chẳng để làm gì ngoài việc để thoả mãn cái “tôi thích thế” của họ. Họ thực chất là những kẻ ích kỷ, dù vô tình hay cố ý, theo cách này hay cách khác, họ đúng là những kẻ ích kỷ. Họ chỉ muốn “sướng” cho bản thân họ. Họ mò mẫm đến những bản làng xa xôi, thích thú ngắm nhìn những con người thiểu số sống một cuộc sống của cả thế kỷ trước. Họ vui mừng vì được chứng kiến cái hoang sơ và nghèo khó, nơi người ta ăn những thứ lá cây vốn chỉ dành cho gia súc, uống thứ nước chưa được xử lý do mấy cây tre ẩm mốc mang về, nơi mà mọi đồ đạc trong nhà đều méo mó, đen đúa và cáu bẩn. Tất nhiên họ chẳng phải là nguyên nhân của sự nghèo khó đó, và có thể họ cũng chẳng muốn người ta phải nghèo khổ như thế.

Nhưng, thật trớ trêu, họ lại cảm thấy khó chịu khi thấy cuộc sống của người ta khấm khá hơn. Họ thất vọng khi thấy mấy em Hmông váy áo “dân tộc” thế mà lại ngồi xem Ưng Hoàng Phúc hát trên VCD. Họ cau mày khi thấy trên mấy vách tường gỗ của ngôi nhà sàn được dán đầy những ngôi sao ca nhạc cả Việt Nam và Hàn Quốc. Họ muốn mọi thứ ở đó đều phải mang một vẻ ban sơ, thô mộc, original. Họ muốn mọi thứ ở những ngôi làng đó đều như phải được sinh ra từ đất, không plastic, không điện tử, không song. Nói một cách cực đoan hơn, họ không muốn những ngôi làng hẻo lánh mà họ đã khó nhọc tìm đến lại bị xâm lược bởi những thứ văn minh của cái đám người Kinh dưới kia, dù cho những cái mà họ gọi là “lai tạp vớ vỉn” đó chính là dấu hiệu của một cuộc sống vật chất đang được cải thiện, là những thứ để làm nông đi cái hố ngăn cách ngược xuôi.

Có những khi họ xa cơ lỡ bước trên bước đường lượt phượt, họ đi cầu cứu sự giúp đỡ của những người thiểu số đó. Họ được một gia đình nghèo khó nhưng tốt bụng dành cho một chỗ sạch nhất, ấm nhất trong nhà để ngủ, được ăn cơm với những quả trứng gà quý giá mà ngay cả đứa con suy dinh dưỡng của họ cũng không được ăn, uống những thứ rượu vốn được gia chủ cất sâu trong gậm giường. Những người nghèo khó tốt bụng đó xứng đáng được đền bù về mặt vật chất, họ nghĩ vậy. Thậm chí, theo cách nghĩ thông thường, nên được trả công hậu hĩnh hơn so với mức cần thiết. Họ biết rằng thêm 50.000 với họ không thành vấn đề gì nhưng với cái gia đình nghèo khổ kia thì đó là một món quà lớn mà có thể làm cho bà chủ nhà vui mấy ngày. Lương tâm họ muốn làm việc đó, nhưng họ lại không làm. Họ chỉ trả công cho gia đình ấy một cách rất rất chừng mực, chừng mực ở mức mà tất cả những người đi bụi khác đều chấp nhận được, và gửi kèm một lời cám ơn chân thành và very big. Họ lo ngại rằng một số tiền lớn hơn có thể sẽ làm “hư” cái gia đình ấy, rồi không lâu sau sẽ hư cả cái bản ấy, rồi những người khác đến sau họ sẽ phải chịu cảnh đối xử “dịch vụ”, “mất hết tình người”. Đây quả là một sự ích kỷ đầy tinh thần trách nhiệm, một sự ích kỷ có tổ chức.

Sunday, July 06, 2008

KHỦNG HOẢNG VÀ TIẾN HÓA HÒA BÌNH


KHỦNG HOẢNG VÀ TIẾN HÓA HÒA BÌNH

Luật sư. Lê Quốc Quân.

Thách đố trước mắt đối với thế giới là 2 cuộc khủng hoảng năng lượng và lương thực. May thay đó cũng là 2 thứ mà Việt Nam được Trời phú cho rộng rãi.

Với trữ lượng dầu mỏ dự kiến khoảng 1,2 tỷ m3 và là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 triên thế giới, Việt nam đã có thể an nhiên tự tại, mỉm cười qua những cuộc khủng khoảng đang làm cả thế giới đau đầu.

Hàng loạt mỏ dầu vẫn tiếp tục được đẩy mạnh khai thác và tiềm năng dầu khí tại các bể trầm tích Sông Hồng, Nam Côn Sơn, Vũng Mây và mới đây nhất là Mỏ Tê Giác Đen...với trữ lượng xác minh được ngày càng cao lẽ ra đã cho phép Việt Nam “thờ ơ” với những kỷ lục giá dầu mới liên tục được lập ra.

Hai vùng đồng bằng Sông Hồng và Sông Cửu Long cùng với dải đồng bằng ven biển đã giúp cho ông Cha ta nhiều đời nay được no ấm đã có thể đem lại nhiều giá trị cho Việt Nam trong cơn khủng hoảng hiện nay.

Nhưng đập vào mắt nơi đô thị là sự ngông nghênh chơi trội, là hoa quả, lương thực, thực phẩm ngoại tràn ngập các sạp hàng và siêu thị với giá đắt đỏ, phía sau là vùng nông thôn rộng lớn với số đông dân nghèo đang đối diện với nguy cơ thiếu đói và một môi trường xã hội với những thiết chế cộng đồng làng xã đang ngày càng rạn vỡ.

Tháng 6 – thời điểm Chính Phủ khống chế tăng giá xăng dầu, sắt thép…- bắt đầu hết. Dự án kinh tế nặng mùi chính trị Dung Quất lại nhùng nhằng bước sang năm chậm thứ 8 so với kế hoạch ban đầu trong khi những thùng dầu thô vẫn cứ tiếp tục nối đuôi nhau chạy khỏi phao số không.

Tiền thuế của dân vẫn tiếp tục đổ vào bù lỗ cho các tổng công ty xăng dầu với niềm tin mong manh về khả năng kìm chế giá lạm phát.

Rừng vẫn tiếp tục bị phá làm ruộng đồng lũ lụt liên miên.

Đất đai cằn khô thiếu dinh dưỡng trong khi hàng loạt nhà máy sản xuất phân bón đều chậm tiến độ xây dựng hoặc tồn tại mang tính biểu tượng. Đặc trưng nhất là nhà máy Phân Đạm Hà Bắc – Một doanh nghiệp chết dở đang ngấu nghiến “nhai” tiền thuế của dân để vênh váo tồn tại vì nó là biểu tượng cho tình hữu nghị Việt- Trung do Trung Quốc xây dựng từ năm 1959.

Ruộng ngoại ô hoang hóa vì quy hoạch treo. Nhiều cánh đồng phì nhiêu đã được hệ thống “cò dự án” kết lại thành “đường dây”. Trong thực tế chính các trưởng thôn tham nhũng lại là những “nhà quy hoạch” đầu tiên, nối tiếp bằng những chữ ký thiếu trách nhiệm và đầy mùi ngân kim của Xã, Huyện và lên Tỉnh, ào ào cướp đất nông dân, biến ruộng lúa thành những khu công nghiệp thô lậu xây dựng vội vàng, vắt kiệt sức khỏe của những trai thanh gái tú Việt Nam tuổi đương thì.

Với một quốc gia trẻ 85 triệu dân đang tuổi lớn khát khao tiêu dùng, tình trạng lạm phát và nhập siêu, trong đó có nhập siêu xăng dầu, liên tục phá vỡ các giới hạn cho phép chắc chắn sẽ đặt Việt Nam trước những nguy cơ của khủng hoảng, buộc chúng ta phải đặt vấn đề về khả năng cung cấp sản phẩm cho dân chúng và suy nghĩ về công cụ quản lý chính sách vĩ mô thông qua phát triển bền vững.

Phát triển bền vững và cơ hội trong khủng hoảng:

Đã đến lúc chúng ta phải hiểu rõ những con cá vẫn có thể lớn nhanh và tươi ngon, những bông lúa vẫn trĩu hạt với chất lượng và giá cao mà không cần phải tiêu tốn nhiều năng lượng, vắt kiệt tài nguyên thiên nhiên và hủy hoạt môi trường.

Người Nhật đã có thể phá bỏ những vùng trồng lúa để xây dựng nhà máy công nghiệp với giá trị tạo ra cao gấp nhiều lần nhưng họ vẫn để lại nhiều cánh đồng lúa mênh mông bởi nông nghiệp đã trở thành nguồn cảm hứng thiên nhiên, của du lịch và văn hóa cộng đồng.

Thực tế lịch sử phát triển cho thấy có nhiều con đường khác nhau để đi đến một giá trị phát triển bền vững. Nông sản có thể tạo ra được những giá trị lớn và người nông dân vẫn “khỏe mạnh tới tận già” bỏ xa những thu nhập “còm” ở một nhà máy công nghiệp nhỏ nơi mà thời giờ nghỉ ngơi, ánh sáng, chỗ ngồi, dinh dưỡng bữa ăn cho công nhân đều thiếu thốn một cách tệ hại.

Nơi mà sau 5 năm những “cối xay thịt” đó đã trả về cho quê hương những chàng thanh niên ốm yếu và phụ nữ trẻ với vô vàn bệnh phụ khoa. Họ bị vắt kiệt sức lao động ở lứa tuổi đang sung sức nhất bằng những thao tác hết sức đơn thuần “phổ thông” trong những nhà máy của những Ông chủ có tầm nhìn ngắn hạn và đầu tư vào Việt Nam chỉ là chụp giật.

Công nghiệp hóa là hết sức quan trọng và cần thiết. Nó đã đưa nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…đến bến bờ phát triển một cách nhanh chóng nhưng nó phải thực sự bắt đầu một cách có bài bản xuất phát từ lợi ích quốc gia chứ không phải manh mún và gượng ép xuất phát từ những lợi ích cá nhân của quan chức hoặc vùng miền.

Qủa thật, khi các tập đoàn lớn và nghiêm túc, có hàm lượng chất xám cao, vì những quan ngại chính trị đối với một quốc gia đang ngập ngừng trong đổi mới, chưa thực sự bước vào đầu tư thì những nhà đầu tư “cò con” đã kịp vào, cấu kết với tư bản đỏ, xé nát quy hoạch và ăn và chơi loạn xị ngậu trên mảnh đất Việt Nam này.

Diễn tiến hòa bình là sự liên tục thay đổi tư duy

Vốn hầu hết xuất thân từ nông dân, nhìn cây lúa, con cá lớn dần lên, lẽ ra các nhà chính trị cần phải hiểu thế nào là tiến hóa và phát triển bền vững để có tư duy khoa học, tận dụng các lợi thế cạnh tranh hầu đem lại một giá trị phát triển lớn hơn cho chính Nhân dân Việt Nam.

Về chính trị, đã đến lúc các nhà lãnh đạo đừng đem học thuyết vĩ đại “này nọ” hoặc những con “ngoáo ộp” ghê gớm đâu đó ra hù dọa dân chúng và những công chức yêu nước cấp tiến trong bộ máy của mình khi những điều tự nhiên như hơi thở là cơm ăn áo mặc, quyền được nói, được nghe, được cầu nguyện vẫn tiếp tục bị hạn chế.

Nhiều vị lãnh đạo đã rất phản động khi gán ghép những vấn đề như dân chủ, nhân quyền là một phần của “âm mưu” diễn tiến hòa bình mà quên rằng sự “tiến hóa hòa bình”[1] là điều tất yếu đang xảy ra liên tục trong chính bộ não chúng ta nếu chúng ta còn là một cơ thể sống.

Cần phải hiểu rằng, tự ngàn xưa và đúng với tất cả các loài, quan trọng nhất của sự tiến hóa là tiến hóa về tư duy. “Phát triển bền vững” chính là bền vững trong tiến hóa tư duy. Ngược lại với điều đó là phản động.

Về kinh tế, cần từ bỏ lý thuyết chạy theo tăng trưởng một cách đơn thuần và niềm đam mê “vai trò chủ đạo” của kinh tế Nhà nước bởi điều đó có thể dẫn rất nhanh đến sự phá sản của toàn bộ nền kinh tế do phải tập trung quá nhiều nguồn lực vào phát triển các tập đoàn tốn kém và bụi bặm.

Mặt khác sự vội vàng để chiếm lĩnh vai trò “định hướng” có thể gây ra nhiều hậu quả tai hại khác đối với môi trường sống của cả nước trong tương lai. Ô nhiễm môi trường và tài nguyên cạn kiệt là cái giá mà sau này con cháu sẽ phải trả có thể rất lớn.

Trước đây nhờ tiến hóa tư duy mà Việt Nam chúng ta từ đói ăn đã thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Trước đây cũng nhờ tiến hóa tư duy mà hợp tác khai thác dầu khí với các quốc gia ngoài Liên Xô nên hôm nay ta có những mỏ dầu khai thác có tỷ trọng lợi nhuận lớn hơn hẳn. Tóm lại, nhờ tiến hóa hòa bình mà Việt Nam ta đã từng vượt qua “tiểu khủng hoảng”

Vậy thì giải pháp tiếp theo của chúng ta hôm nay để đối mặt và vượt qua các cuộc “đại khủng hoảng” không có gì khác ngoài việc tiếp tục tiến hóa hóa bình, tiếp tục đẩy mạnh cải cách, tiếp tục các di sản của những người đi trước, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm đưa đất nước đi lên dù có bị “búa” đập và “liềm” cắt. Muốn làm được vậy, trước tiên các nhà lãnh đạo cần phải tự “tiến hóa hòa bình”.


[1] Tác giả dịch chữ “Peaceful Evolution” là – “Tiến hóa hòa bình” trong khi hầu hết các đài báo Việt Nam đều dịch là “Diễn biến hòa bình”. Có thể xem thêm Darwin Evolution Theory – Học thuyết tiến hóa của Darwin.