Sau chiến tranh thế giới thứ 2 có 4 nước bị chia cắt: Việt
Nam, Triều Tiên, Đức và Trung Quốc nhưng chỉ có Việt Nam quyết định dùng chiến
tranh trong gần 20 năm để giải phóng phần còn lại.
Bố tôi thở phào khi những chiếc xe tăng của nước ngoài do đồng
đội của ông lái từ Bắc Việt tràn vào húc đổ cánh cổng Dinh Độc Lập. Thống nhất
đất nước làm ông vui vì chiến tranh qua đi, những người anh em không còn bắn
nhau, đặc biệt ông trút được gánh nặng khủng khiếp của câu nói: “5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa…”.
Sự hy sinh và niềm tin chiến thắng:
Giống như hầu hết người dân Miền Bắc
khi đó, ông nghĩ rằng việc chiến đấu giành độc lập là đương nhiên, có thể kéo
dài mãi mãi. Chiến thắng đến sớm hơn ngày nào thì vui ngày đó nhưng nếu không đến
sớm thì cả cuộc đời họ vẫn dấn thân. Sinh ra, lớn lên, trưởng thành rồi vào nam
chiến đấu như một định mệnh.
Khi đó con người tập trung vào một điều
duy nhất là “độc lập dân tộc”. Chỉ có
độc lập dân tộc mới có các giá trị khác, chỉ khi bước qua được nấc thang quan
trọng là “giải phóng” thì mới có tất cả. Khi đó chiến tranh đã mang màu sắc tôn
giáo cực đoan, hành xác để được an lạc. Ai hy sinh nhiều hơn, đau khổ hơn thì
thấy mình tốt hơn với mong ước khi giang sơn liền một mối sẽ tự do vui hưởng
thái bình.
Nhờ xác tín điều đó mà chiến thắng đã
đến sớm hơn dự định cho những người cộng sản. Cuộc tổng tiến công mùa xuân năm
1975 ban đầu cũng chỉ là một vài trận đánh mang tính thăm dò nhưng không ngờ
chiến thắng đã đến dễ dàng hơn, dẫn tới toàn thắng 30-4-1975.
Thực tiễn Việt Nam hôm nay
37 năm đã trôi qua, những người nông
dân vẫn còng lưng đi cấy. Nhưng khi đang lam lũ, ngẩng mặt lên vuốt vội mồ hôi
là lúc bà con thấy đất dưới chân mình trôi đi. Nó bị “cướp” đem bán cho những
người khác với giá gấp hàng ngàn lần. Vì vậy, vẫn còn đó anh Vươn tạo “bom” và
bà con Văn Giang đang đem cuốc, xẻng, gậy gộc ra đồng giữ đất.
Đất nước vẫn không ngừng động loạn, bất
an. Hết cải tạo công thương là quá trình bỏ nước ra đi, sau đó là những năm bao
cấp đói đến run người. Kể từ khi xa rời dần với CNXH, đất nước no bụng nhưng bỗng
đói tâm hồn. Nhân phẩm nhiều người như bị xé ra làm đôi, chắp vá. Họ có thể hiền
lành đạo đức rồi bỗng trở nên quay quắt bất ngờ.
37 năm trôi qua, các giám đốc kinh
doanh ở độ tuổi này cũng bàng hoàng khi thấy loay hoay giữa dòng đời khi không
thể giữ được mình trong sạch và sống đúng lương tâm. Đi đút lót thì mới có được
hợp đồng, lâu rồi thành quen, phổ biến và được thừa nhận trong đầu nhưng không
thể nói ra giữa cuộc họp. Nó được mổ xẻ ở bàn nhậu và biết là xấu nhưng vẫn phải
làm.
Điểm khác biệt giữa giang hồ và quan
chức là giang hồ không treo mặt nạ đạo đức giả. Trong khi đó hàng loạt quan chức
lại sống hai mặt và đóng hai vai vừa vặn. Họ vừa là ông trùm-vừa là quan chức,
tồn tại một cách giật cục, nhiêu khê giữa lòng xã hội. Khi thì họ đeo mặt nạ cộng
sản giảng lời đạo đức và liêm chính. Khi thì họ cáu quá, điên tiết giật mặt nạ
ra và để lộ bộ mặt tư bản béo ị, trắng trợn và công khai thách thức hàng triệu
bần nông.
Nền chính trị lưỡng chuẩn (double
standard) này đã tạo ra những giá trị ma quái của cuộc sống làm cho rất khó định
vị con người. Nhiều người cao cả chức và tiền, vẫn ngu dốt một cách hồn nhiên.
Họ pha lẫn giữa một tay chơi và một tuyên úy, rao giảng một cách lý thuyết và
vô trách nhiệm trên trên sân khấu chính trị nhưng cực kỳ thực dụng và rất có
trách nhiệm với những việc riêng ở nhà hoặc trong nhóm lợi ích của mình.
Nhưng cũng đáng hy vọng và vui mừng vì 37 năm trôi qua, càng
ngày càng nhiều người bất chấp những khó khăn, tù đày, cô đơn và kỳ thị vẫn âm
thầm hay công khai tranh đấu cho một Việt Nam tốt hơn. Và bài học của những người
đó cho chúng ta là gì ?
Nhân quyền và bài học cho các nhà đấu
tranh
Bài học đầu tiên có lẽ cần phải xác
quyết rằng việc đấu tranh là để giành lấy các quyền và giá trị phổ quát của con
người là cuộc đấu tranh mãi mãi. Chúng ta phải luôn ý thức được rằng nhân phẩm con
người là bình đẳng. Nhân quyền là của mọi người và cho mọi người. Nhà nước sinh
ra là để đảm bảo các quyền đó được thực thi chứ không phải ngăn cấm quyền đó,
vì vậy khi nào và bất cứ ở đâu còn bị mất dân chủ, nhân quyền thì vẫn còn đấu
tranh.
Đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền
khác với việc đấu tranh “giải phóng” đã đến vào thời điểm năm 1975, nó đến từ
khi con người được sinh ra và kể cả sau lúc chết đi. Cuộc đấu tranh này là quá
trình đòi lại quyền tự nhiên cho tất cả mọi người, từ người nghèo khổ đến những
vị giàu có, từ người vô học cho đến các tri thức lớn, từ nông thôn đến thành thị
và vượt qua cả biên giới quốc gia.
Bởi vậy đấu tranh cho nhân quyền là
cuộc đấu tranh miên viễn. Có thể bước đầu tiên sẽ là đấu tranh cho một cơ chế đảm
bảo tôn trọng và có khả năng thực thi nhân quyền. Công cuộc đó có thể là “10 năm, 20 năm, 50 năm hoặc lâu hơn nữa”
nhưng nhất định phải đến. Những giá trị mà cả thế giới đã thừa nhận và thực thi
chắc chắn phải được triển khai trên quê hương Việt Nam. Chúng ta không thể sống
khác khi đã là một bộ phận của xã hội văn minh, của tương quan quốc tế.
Bài học thứ hai đến từ một lẽ rất tự
nhiên rằng “cướp chính quyền” là việc của Nhà nước “còn đòi lại chính quyền” luôn
luôn là việc của nhân dân. Lịch sử đã chứng minh rằng qúa trình phát triển của
loài người là quá trình giằng co “cướp” và “đòi lại”. Mỗi một lần như vậy, người
dân lại được thêm nhiều quyền hơn. Thomas Jeffereson đã từng nói là: “nếu trong vòng 20 năm mà không có ai đứng
lên chống chính quyền đó là lúc đất nước suy thoái” . Dường như chính quyền
Mỹ ngay từ khi lập quốc đã cổ súy cho việc chống lại chính quyền, vì họ hiểu rằng
lạm dụng quyền lực là tất yếu. Đấu tranh cướp lại quyền của dân luôn luôn là tích
cực cho sự phát triển xã hội.
Mặt khác, xu hướng dân chủ đang diễn
ra một cách nhanh chóng ở khắp nơi trên thế giới, và những chế độ độc tài đang dần
dần trở nên hiếm hoi. Có câu thành ngữ đã nói “Ta cần hy vọng những điều tốt nhất nhưng luôn chuẩn bị cho những điều
tệ nhất”. Chúng ta phải đấu tranh và tệ nhất có thể là hết đời, thậm chí đến
đời con cháu chúng ta nhưng cũng hy vọng những điều tốt nhất sẽ đến trong tương
lai không xa. Miến Điện là một ví dụ về sự cải tổ khá ngoạn mục trong một thời
gian ngắn. Khi xác định rõ về mục tiêu chắc chắn độc tài toàn trị phải nhường
chỗ cho dân chủ, tự do, những nhà tranh đấu sẽ thanh thản và cảm thấy cuộc đời
bình an.
Bởi vậy, bài học lớn nhất, quan trọng
nhất, có tính quyết định nhất là sự ý thức triệt để và mạnh mẽ về sự tất thắng
của quá trình đấu tranh vì con người, vì một Việt Nam tiến bộ. Giống như Hồ Chí
Minh xưa đã tuyên truyền để xác định về sự tất thắng cuộc chiến Việt Nam cho
người dân Miền Bắc, hôm nay một niềm xác tín sâu xa về công lý, sự thật, dân chủ
và nhân quyền sẽ giúp tất cả các nhà đấu tranh thêm sức mạnh.
Khi ý thức rõ rệt về con đường của
dân tộc và của nhân loại, chúng ta có thể học tập cha ông để đi làm cách mạng.
Khi xưa Hồ Chí Minh lập chiến khu và dùng súng ống để lật đổ chính quyền phong
kiến dưới sự bảo hộ của Pháp bằng phương thức bạo động. Hôm nay chúng ta nên lập
chiến khu là lòng dân, dùng phương bất bạo động để lật đổ tất cả những gì là lạc
hậu, chậm tiến, là độc tài, tham nhũng đang cản đường đi lên của đất nước Việt
Nam.
Bài viết này đã được đăng trên BBC tại địa chỉ: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2012/04/120424_vietnam_reality_30april.shtml