Monday, August 27, 2018

ĐỨC TIN CỦA TÔI - BÀI VIẾT CỦA THƯỢNG NGHỊ SỸ JOHN SIDNEY MCCAIN


Để tưởng nhớ người Bạn của Tôi và của Nhân dân Việt Nam, Để hiểu rõ hơn nhân cách của một người Mỹ đáng kính, tôi chia sẻ bài viết sau đây của Thượng nghị sỹ John McCain về Đức tin. Là người có đạo, tôi thấy vô cùng quen thuộc mà xúc động trước cử chỉ vẽ Thánh giá để nhận ra nhau khi hoạn nạn.


ĐỨC TIN CỦA TÔI.
John McCain.

Tôi tin vào danh dự, đức tin và phụng sự cho tổ quốc và cho nhân loại. Bài học này tôi học được từ gia đình, từ những người cùng phục vụ với tôi ở Việt Nam và từ những người bạn Mỹ.

Đơn cử William B. Ravnel. Ông từng phục vụ trong quân đoàn thiết giáp của Patton mà đã tung hoành khắp Châu Âu. Tuy nhiên tôi biết ông là thầy giáo Anh văn và huấn luyện viên bóng đá ở trường tôi. Thầy dạy Shakespeare rất hay và thầy có tài lãnh đạo tuyệt vời khiến tôi ngưỡng mộ thầy. Thầy dạy tôi điều quan trọng nhất là phải tuân theo quy ước danh dự của trường chúng tôi. Nếu chúng tôi luôn luôn làm đúng theo những tiêu chuẩn trung thực và danh dự ấy thì chúng tôi có thể tự hào về mình. Chúng tôi có thể phụng sự cho những sự nghiệp chung cao quý hơn quyền lợi riêng của mình.

Nhiều năm sau, tôi thấy tấm gương danh dự ở nơi bất ngờ nhất. Là người tù binh Mỹ đầy sợ hãi ở Việt Nam, tôi bị những kẻ tra tấn tôi trói bằng dây thừng dùng để tra tấn rồi bị bỏ mặc như thế trong căn phòng trống không để chịu đau đớn suốt cả đêm. Vào xế chiều, một người lính gác mà tôi chưa từng bao giờ nói chuyện bước vào phòng và lặng lẽ nới lỏng dây thừng ra để cho tôi bớt đau đớn. Ngay trước khi trời vừa sáng, người lính gác ấy trở lại và buộc chặc dây thừng lại như cũ trước khi những đồng chí ít nhân đạo hơn của anh lại đến. Mấy tháng sau vào buổi sáng ngày Giáng sinh, khi tôi đứng một mình trong sân tù, người lính gác ấy bước đến chỗ tôi và đứng kế bên tôi một lát. Rồi anh lấy dép vẽ thánh giá lên đất. Chúng tôi đứng đấy im lặng độ đôi phút, cho tới khi người lính gác xóa hình vẽ rồi bỏ đi.

Đối với tôi đấy là đức tin: đức tin kết nối mà không bao giờ phân chia, đức tin nối liền những bến bờ không thể nào nối được ở con người. Chính đức tin rằng tất cả chúng ta đều bình đẳng và đều được Tạo hóa ban cho những quyền sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc bất khả xâm phạm. Tôi sẵn sàng chết để bảo vệ chính đức tin ấy.

Quyết tâm hành động một cách danh dự và trung thực của tôi luôn luôn thúc dục tôi hoạt động để phụng sự tổ quốc. Từ trước đến nay tôi tin rằng phương tiện để đạt đến hạnh phúc thật sự và giá trị chân chính của con người luôn luôn được đo bằng sự phụng sự trung thành của chúng ta cho sự nghiệp chung cao quý hơn quyền lợi riêng của mình. Ở Mỹ, chúng ta tán dương những đức tính của người anh hùng thầm lặng- người khiêm nhường thực hiện nghĩa vụ của mình mà không phàn nàn hay hy vọng được khen ngợi; người lắng nghe chăm chú tiếng gọi của non sông, và khi non sông lên tiếng, người ấy đáp lời không dè dặt, chẳng phải vì danh tiếng hay tưởng thưởng, mà chỉ vì tình yêu tổ quốc.

Tôi là người phụng sự kém cỏi cho tổ quốc và tôi là người hèn kém thật sự trước bao sai lầm của mình. Tôi luôn luôn cố gắng sống theo những nguyên tắc danh dự, đức tin và phụng sự vì tôi cũng muốn con tôi sống theo những nguyên tắc ấy. Tôi hy vọng là tấm gương tốt cho con để khi thế hệ của họ thay thế chúng ta, họ sẽ đạt đến những quyết định tốt hơn và tiếp tục mở đường đến công chính và tự do.

Bản tiếng Anh của Ông “The Virtues of the Quiet Hero”
do đài National Public Radio ghi ra từ buổi phát thanh vào năm 2005.


I believe in honor, faith and service — to one's country and to mankind. It's a lesson I learned from my family, from the men with whom I served in Vietnam and from my fellow Americans.

Take William B. Ravnel. He was in Patton's tank corps that went across Europe. I knew him, though, as an English teacher and football coach in my school. He could make Shakespeare come alive and he had incredible leadership talents that made me idolize him. What he taught me more than anything else was to strictly adhere to our school's honor code. If we stuck to those standards of integrity and honor then we could be proud of ourselves. We could serve causes greater than our own self-interest.
Years later, I saw an example of honor in the most surprising of places. As a scared American prisoner of war in Vietnam, I was tied in torture ropes by my tormentors and left alone in an empty room to suffer through the night. Later in the evening, a guard I had never spoken to entered the room and silently loosened the ropes to relieve my suffering. Just before morning, that same guard came back and re-tightened the ropes before his less humanitarian comrades returned. He never said a word to me. Some months later on a Christmas morning, as I stood alone in the prison courtyard, that same guard walked up to me and stood next to me for a few moments. Then with his sandal, the guard drew a cross in the dirt. We stood wordlessly there for a minute or two, venerating the cross, until the guard rubbed it out and walked away.
To me, that was faith: a faith that unites and never divides, a faith that bridges unbridgeable gaps in humanity. It is the faith that we are all equal and endowed by our Creator with inalienable rights to life, liberty and the pursuit of happiness. It is the faith I would die to defend.
My determination to act with honor and integrity impels me to work in service to my country. I have believed that the means to real happiness and the true worth of a person is measured by how faithfully we serve a cause greater than our self-interest. In America, we celebrate the virtues of the quiet hero -- the modest man who does his duty without complaint or expectation of praise; the man who listens closely for the call of his country, and when she calls, he answers without reservation, not for fame or reward, but for love. 
I have been an imperfect servant of my country and my mistakes rightly humble me. I have tried to live by these principles of honor, faith and service because I want my children to live by them as well. I hope to be a good example to them so that when their generation takes our place, they will make better decisions and continue to pave the path towards righteousness and freedom.


Sunday, August 26, 2018

VĨNH BIỆT NGƯỜI BẠN - NGƯỜI ÂN NHÂN JOHN SIDNEY MCCAIN



Thượng nghĩ sỹ John Sidney Mccain (McCain III) - người bạn của tôi - người anh hùng của nước Mỹ, đã qua đời ngày 25/8/2018 khi chỉ còn 4 ngày nữa là bước sang tuổi 82. Tôi viết những dòng này như một gợi nhớ và tri ân vì đã có cơ duyên được gần gũi và trở thành Bạn với Ông.


Đối với tôi, ông là người Bạn Mỹ có quan hệ lâu dài, có ảnh hưởng mạnh đến tư tưởng và sự tự do của mình. Đối với Việt Nam, ông xứng đáng có một vị trí trang trọng vì những nỗ lực không mệt mỏi của Ông cho quan hệ giữa hai nước.

Câu chuyện bắt đầu cách đây đúng 20 năm, khoảng tháng 8 năm 1998, tôi gặp vị đại sứ đầu tiên của Hoa Kỳ tại Việt Nam – cựu chiến binh Peter Peterson - tại nhà thờ Cửa Bắc. Chẳng bao lâu chúng tôi quen nhau và tôi tặng Ngài cuốn sách “Việt Nam cuộc chiến”. Một cuốn sách bằng hình ảnh nói về cuộc chiến Việt Nam mà tôi góp phần chuyển ngữ sang tiếng Anh. Cuốn sách gợi lên một giai đoạn bi thương nhưng đầy kỷ niệm cho các cựu binh Hoa Kỳ.

Được sự gợi ý của Đại sứ Peterson, đã gửi tặng John McCain một cuốn sách vì có nhiều hình ảnh của ông trong khi bị bắt ở hồ Trúc Bạch và ở trong nhà tù Hoả Lò. Do Ông là con nhà nòi 3 đời phục vụ quân đội nên được Hà Nội lưu ý đặc biệt. Ông có ông nội (McCain I) là đô đốc hải quân 4 sao, tư lệnh hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương, Bố là McCain II cũng là đô đốc 4 sao chỉ huy tầu ngầm ở Thái Bình Dương, tư lệnh hải quân Mỹ ở Châu Âu.

Sau khi nhận sách, Ông gửi lời cám ơn và chúng tôi đã gặp nhau trong một lần Ông sang Việt Nam. Ông kể cho tôi nghe về những vết thương thể lý và cả tinh thần nặng nề trong thời gian bị giam ở Việt Nam. Cánh tay phải của Ông sau nhiều lần phẫu thuật vẫn không thể giơ cao quá đầu và hình ảnh tù binh bị “dong” qua các phố ở Hà Nội để người dân la ó và nguyền rủa là một xỉ nhục hơn bất cứ sự hành hạ thể xác nào. Những vết thương theo Ông mãi mãi và vì vậy việc bình thường hoá thật sự cũng theo ông mãi đến ngày ông ra đi.

Đã từng có lần chứng kiến cuộc tranh luận giữa ông với Peter và với cả với Churk về cuộc chiến Việt Nam, về sự can dự như thế nào trong quá khứ và liệu có trong tương lai. Có người ủng hộ quyết định chiến tranh lúc đó, có người phản đối. Peter đã bật khóc và nói “Senator, am I wrong ? – Thượng Nghị sỹ ơi, Tôi có sai không ? ”. Đây là một bài học thực sự với tôi về sự lương thiện và chân thành trong tranh luận. Tôi hiểu McCain có những day dứt nhưng ông biết vượt qua, như đã vượt qua những giai đoạn hiểm nghèo nhất trong cuộc đời. Ông yêu nước Mỹ nồng nàn và phản chiến nhưng Ông không hối hận về cuộc chiến đấu. Ông coi đó như là một nghĩa vụ cao cả mà với tư cách công nhân trong một nước và là người con trong một gia đình truyền thống phục vụ quân đội.

Ông cũng rất hiểu về Việt Nam và lịch sử Việt Nam. Ông kể cho tôi về OSS và Đội công tác Con Nai, về những cơ hội bị bỏ lỡ trong quá khứ và tương lai Việt Nam. Ông tin rằng Dân chủ là tất yếu và chỉ có như vậy Việt Nam mới phát triển. Ông hiểu rõ Hồ Chí Minh và có lần chỉ vào tôi và bảo “ You are Nghe An patriot, like him” rồi cười. Tôi cho đến giờ vẫn không hiểu đó đó là một câu khen hay là 1 câu chê.

Từ khi biết nhau, với tư cách là Chủ tịch Viện Cộng Hoà Quốc tế, Ông gợi ý tôi về việc nghiên cứu sâu về khoa học chính trị và nền Cộng hoà. Khi tôi sang Mỹ học, có dịp được gặp ông tại Văn phòng thượng nghĩ sỹ và rất vui mừng khi Ông đưa bức ảnh tôi tặng khi ông quay đầu bước đi ra chiếc xe Buýt để lên máy bay trở về nước trong đợt trao trả tù binh vào tháng 3-1973. Ông nói “một phần của tôi đã ở đó và luôn muốn quay lại”. Trong thời gian ở Mỹ, có một vài lần được gặp ông cùng trao đổi về cuộc sống, con người và tương lai Việt Nam. Ông chỉ mong một điều là làm sao Việt Nam có thể thoát khỏi được sự ảnh hưởng của Trung Quốc.

Năm 2007 khi tôi về nước và bị bắt với cáo buộc “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền Nhân dân” vì đã quan hệ với 6 tổ chức đảng phái chống cộng. Ông, với tư cách là một Thượng nghị sỹ Thành viên Đảng Cộng hoà – Đương kim chủ tịch Viện Cộng hoà Quốc tế (IRI) và Bà Ngoại trưởng Madeleine Albright – Chủ tịch Viện Dân chủ Quốc gia (NDI) đã viết thư yêu cầu chính phủ Việt Nam tiến hành “các sắp xếp cần thiết để thả Luật sư Lê Quốc Quân”. Khi còn ngồi trong tù, thông qua, thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, tôi được biết Ông là người yêu cầu mạnh mẽ nhất việc trả tự do cho tôi vì ông tin “Quân không làm điều gì sai với Việt Nam cả”.

Tôi và gia đình rất vui mừng vì Ông đã không quên chúng tôi trong lúc hoạn nạn.

Ngày ông ứng cử tổng thống, chạy đua cùng Tổng thống Obama, trong tôi có nhiều cảm xúc khác lạ. Là một người yêu dân chủ và đang rất hâm mộ thổng thống Obama nhưng McCain là một điều gì đó gần gũi và rất quen thuộc với gia đình. Tôi công khai viết bài ủng hộ tổng thống OBAMA nhưng khi biết ông bị loại lòng cũng bùi ngùi.

Lần cuối gặp ông là năm tháng 6 năm ngoái (2017) khi ông sang Việt Nam. Lần này tôi quyết định đến gặp ông dù được chính quyền khuyến cáo là không được gặp. Tuy nhiên, tôi đã để lại một tin nhắn cho các nhân viên an ninh rằng: “Ông ấy là một người bạn, của tôi và của Việt nam, dù các ông có ngăn cản thì tôi vẫn cứ đi”.

Sau khi tìm mọi cách trốn đi để có được cuộc gặp cuối cùng với Ông, hôm sau tôi đã bị đánh và bị doạ giết. Tuy nhiên, tôi không bao giờ hối tiếc việc đó. Tôi thấy Ông là tấm gương, ngay cả khi bệnh tình đã nặng, ông vẫn miệt mài vun đắp cho sự phát triển của Việt nam, không chỉ với chính quyền, mà còn với những con người đối lập với Chính quyền.

McCain III luôn tin rằng, một cuộc hoà giải đích thực sẽ rất mất thời gian, và trước tiên đó phải là một sự hoà giải thực sự trong tâm hồn người Việt, nơi tự do dân chủ được tôn trọng và Tôi có quyền gặp Ông bất cứ khi nào.

Giờ thì không còn cơ hội nữa, nhưng tôi sẽ rất nhớ và tôi tin rằng ông sẽ mãi phù hộ cho sự Hoà giải được thành công. Xin Chúa đón nhận Linh hồn ông về nơi vĩnh hằng.