Nhiều bạn trẻ ở Hà Nội luôn tin rằng những chuyện "báo chí, văn học, chính trị, nghệ thuật...phải là người Miền Bắc làm còn Miền Nam chỉ làm kinh tế". Thế nhưng lịch sử đã cho thấy rằng người Miền Nam luôn luôn đi trước. Những nhân sỹ Miền Nam bắt tay vào làm báo, viết văn, nghệ thuật, kinh tế và kể cả làm cách mạng trước xa những người Miền Bắc. Gần đây đọc một số tài liệu về "Nhóm Nguyễn Ái Quốc" mới thấy các cụ Nguyễn An Ninh, Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền.. thực sự là những nhà cách mạng, yêu nước nồng nàn, tha thiết với quê hương và Nam Kỳ là mảnh đất các Ông hoạt động. Dù không được công bố rộng rãi, Petrus Trương Vĩnh Ký là một nhà cách mạng văn hóa, đi trước và ảnh hưởng sâu sắc đến nhóm "Nguyễn Ái Quốc" sau này.
------------------------------
CUỘC ĐỜI CHÌM NỔI CỦA NHÀ BÁO
ĐẦU TIÊN Ở VIỆT NAM
Nhà báo đầu tiên của Việt Nam là ông Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Ông
sử dụng thành thạo 26 ngoại ngữ, là một học giả lớn nghiên cứu nhiều lĩnh vực nổi tiếng về ngôn ngữ được xem là nhà Việt ngữ học lỗi lạc và được xếp vào hàng “Thế giới thập bát văn hào” là
tác giả của hàng nghìn bài báo và
sách.
Theo lịch sử báo chí Việt Nam, tờ báo Quốc ngữ đầu tiên của nước ta do E Doteau thông ngôn
của Soái Phủ Nam Kỳ làm chủ bút, đó là tờ ”Gia Định báo”. Số đầu tiên ra ngày 15-4-1865, mỗi tháng báo ra một số. Đến năm 1869, Thống Đốc Nam Kỳ giao cho ông Trương Vĩnh Ký làm giám đốc, ông Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút. Nội dung của báo gồm hai phần. Phần công vụ đăng các nghị định thông tư của Pháp. Phần tạp vụ đăng tin trong nước, chủ yếu là tin Nam Kì…
Trương Vĩnh
Ký được coi là
người đặt nền móng cho báo chí quốc ngữ Việt Nam, gắn liền với tờ Gia Định báo. Cho đến nay, các tác phẩm báo chí mà ông để lại vẫn không hề lỗi thời mà tiếp tục phát huy ý nghĩa và sức mạnh.
Tuổi thơ đầy biến cố
Trương Vĩnh
Ký sinh tại ấp Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, phủ Hoàng An, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc huyện Chợ Lách, Bến Tre), tên lúc mới sinh là Trương Chánh Ký, tự Sĩ Tải, theo đạo Thiên chúa giáo nên có
tên thánh là Jean Baptiste Pétrus (gọi tắt là
Pétrus), là con thứ ba
của lãnh
binh Trương Chánh
Thi và bà Nguyễn Thị Châu. Năm lên 3 tuổi, thân phụ ông được triều đình cử đi sứ sang Cao Miên rồi mất. Nhờ mẹ tần tảo nuôi nấng, lên 5 tuổi Trương Vĩnh Ký được đi học chữ Hán tại Cái Mơn. Năm 9 tuổi, ông được linh mục Tám đem về nuôi, khi ông Tám mất, hai nhà truyền giáo người Pháp thấy ông vừa thông minh vừa chăm học nên đem về trường dòng ở Cái Nhum dạy chữ Latinh. Năm 1848,
Pétrus Ký sang học tại Chủng viện Pinhalu ở Phnôm Pênh
(Campuchia).
Năm 1851, trường này chọn 3 học sinh xuất sắc, trong đó có Pétrus Ký để cấp học bổng đi du học tại Chủng viện Giáo hoàng ở Penang (Malaysia),
chuyên đào tạo các tu
sĩ. Năm 21 tuổi (1858),
chỉ còn
một năm nữa là tốt nghiệp để chịu chức linh mục thì Trương Vĩnh Ký phải về nước chịu tang mẹ. Khi trở về quê hương, cũng là lúc thực dân Pháp đem quân sang
xâm chiếm Việt Nam, vì thế việc cấm đạo Công giáo cũng diễn ra gay gắt hơn.
Không du học nữa, cũng không thể ở lại quê nhà, Trương Vĩnh Ký lên Sài Gòn, tá
túc tại nhà vị giám mục người Pháp Lefèbrie và được giới thiệu làm thông ngôn. Từ đây bắt đầu chặng đường Trương Vĩnh Ký trở thành nhà giáo, nhà
báo, nhà văn của Việt Nam. ông thông thạo 26 ngôn ngữ và là một trong 18 văn hào thế giới của thế kỷ XIX.
Tuy cuộc đời của ông trải qua nhiều biến cố, song ông đã để lại cho đời hơn 100 tác phẩm rất có giá trị về các lĩnh vực văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật.
Nhà báo tài ba
Nổi tiếng là thần đồng, hiếu học, ngay từ bé Trương Vĩnh Ký đã thông thạo chữ Hán và quốc ngữ nên năm 1863, ông làm
phiên dịch cho
phái đoàn nhà Nguyễn sang
Pháp thương lượng chuộc ba tỉnh miền Đông. Về nước, ông tham gia hoạt động xã hội mạnh mẽ. Năm 1886, Trương Vĩnh Ký cộng tác với Toàn quyền Paul Bert và có lúc dạy tiếng Pháp cho vua Đồng Khánh. Ít lâu sau, ông
chán nản rút khỏi chính trường, chuyên tâm vào việc nghiên cứu khoa học nhân văn và ngôn ngữ.
Bằng trí tuệ uyên bác, năng lực cảm nhận và sáng tạo cao, làm việc nhanh và nhạy bén, Trương Vĩnh Ký đã viết hơn 100 bộ sách và hàng nghìn
bài viết gồm nhiều thể loại, nhiều ngành khoa học khiến ai cũng phải kinh ngạc. Là nhà ngôn ngữ đầu tiên của Việt Nam, Trương Vĩnh Ký rất coi trọng, tin tưởng và phấn đấu cho tiếng Việt, đưa nó thành một ngôn ngữ phổ biến, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Với lĩnh vực văn học quốc ngữ, ông là một trong số ít người tiên phong, chủ trương thiết lập câu văn xuôi với tiếng An Nam ròng, câu văn trơn tuột như nói…
Ông cũng là một trong
những nhà dịch thuật đầu tiên, nổi tiếng với việc dịch các tác phẩm tiếng Hán, tiếng Pháp sang tiếng Việt nhưng đáng nói nhất là vai trò quan trọng của Trương Vĩnh Ký trong lịch sử báo chí nước nhà. ông đã thành lập và làm tổng biên tập tờ báo quốc ngữ đầu tiên, đồng thời là cây bút chủ chốt của nhiều tờ báo khác. Nhiều chuyên gia đánh giá, Trương Vĩnh Ký đã đặt nền móng và dốc sức phát triển báo chí Việt Nam theo hướng toàn diện, rộng lớn về quy mô, chặt chẽ về kết cấu, đa dạng về phong cách và thuận tiện, gần gũi, hoà đồng về phương thức tiếp cận bạn đọc.
Trong lĩnh vực văn
hóa, Trương Vĩnh
Ký đã chứng tỏ có kiến thức uyên bác về nhiều mặt, không chỉ trong khoa học xã hội mà cả trong khoa học tự nhiên. Đặc biệt về hoạt động sưu tầm, biên khảo, phiên âm, phiên dịch, ông đạt những thành tựu đáng kể. ông dịch sách chữ Hán, phiên ra chữ quốc ngữ những bản cổ văn Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Phan Trần, Gia huấn ca, Lục súc tranh công,…
Bấy nhiêu
cũng đủ thấy ông có một năng lực làm việc phi thường. Trong khoảng thời gian 40 năm (1858 –
1898), Trương Vĩnh
Ký đã để lại cho đời 118 tác phẩm, bao gồm sách nghiên cứu, sưu tầm, dịch, phiên âm, trong đó có
hàng chục quyển sách viết bằng Pháp văn. Ở buổi đầu giao thoa giữa hai nền văn hóa Tây phương và Đông phương tại Việt Nam, một sự nghiệp đồ sộ như thế quả là hiếm có. J.Bouchot, một học giả Pháp đã gọi ông là “một nhà bác học duy nhất ở Đông Dương”.
Ở nước ta, một số nhà nghiên cứu đã đánh giá khá cao những cống hiến của ông. Nguyễn Văn Tố tóm tắt sự nghiệp của Trương Vĩnh Ký trong 3 tiếng: “Bác học, Tâm thuật, Khiêm tốn” và trong lời tựa cuốn Trương Vĩnh Ký của Lê Thanh, ông cho rằng họ Trương là “một nhà lập ngôn bất hủ, một tay cự phách trong văn học, đã nổi tiếng là một nhà sư phạm”. Vũ Ngọc Phan trong tập Nhà văn hiện đại đã viết: “Trương Vĩnh Ký thiệt là một nhà bác học. Ông không những là một nhà văn, một nhà viết sử, một nhà dịch thuật mà còn là một người giỏi về ngôn ngữ”.
Tuy thế, Trương Vĩnh Ký cũng không được hưởng vinh hoa, phú quý hay
danh vọng vì có
nhiều ý kiến phê phán, buộc tội họ Trương đã cộng tác với thực dân, phản lại Tổ quốc. Ông đã mượn câu cách ngôn Latinh: “Ở với họ mà không theo họ” để biện minh cho việc nhận lời làm thông ngôn cho Pháp.
Ước nguyện cuối đời
Ông mất ngày
1/9/1898 tại Sài
Gòn, thọ 62
tuổi. Những năm gần đây, một số công trình nghiên cứu về Trương Vĩnh Ký liên tục được đăng tải trên các tạp chí hoặc in thành sách, thể hiện một quan điểm lịch sử khách quan, một cách nhìn bình tĩnh và
khoa học hơn về học giả này.
Ngày nay, nằm giữa trung tâm TP. Hồ Chí Minh có một di tích được xây dựng đã hơn 100 năm, đang xuống cấp trầm trọng. Đó là khu mộ phần của “thập bát văn hào” của thế giới thế kỷ XIX: học giả Trương Vĩnh Ký. Mộ ông được xây dựng ngay tại sinh phần của dòng họ, nơi có hơn 50 ngôi mộ. Bên cạnh khu mộ là ngôi nhà cổ với kiến trúc ba gian hai chái
truyền thống, bên trong treo bức ảnh chụp cả nhà họ Trương trong ngày chôn cất Trương Vĩnh Ký. Trên nóc nhà
còn khắc dòng chữ ghi thời gian xây dựng ngôi nhà: “December
1889”.
Theo con cháu cụ Trương hiện vẫn còn sinh sống tại đây, ngôi nhà này do đích
thân cụ Trương Vĩnh Ký chỉ huy xây dựng. Đây cũng là nơi cụ sống và làm việc những ngày cuối đời. Trong một tác phẩm biên khảo về Trương Vĩnh Ký, ông Phan Thứ Lang có viết: “Khu lăng mộ Trương Vĩnh Ký là công trình kiến trúc độc đáo của Sài Gòn xưa. Ở đây có sự kết hợp hài hòa giữa các trường phái kiến trúc Đông – Tây, kim – cổ. Cổng vào lăng mộ được xây theo kiến trúc đình, chùa phương Đông với cổng Tam quan. Nhưng trên nóc cổng lại gắn một cây thập giá, giữa cổng khắc hàng chữ Latinh: “Miseremini
mei saltem vos acimic mei” (Xin hãy thương tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi) như một ước nguyện cuối đời của học giả họ Trương”.
(Theo Kinh tế nông thôn)
Phan Văn Trường quê ở đâu? Nguyễn Thế Truyền quê ở đâu? Chữ quốc ngữ đúng là được phổ biến rộng rãi đầu tiên ở Nam Kỳ nhưng phải đến khi ra Bắc thì nó mới đạt được những thành tựu với phong trào thơ Mới và nhóm Tự Lực Văn Đoàn. "Nhiều bạn trẻ HN" nghĩ như vậy cũng không phải là không có cơ sở đâu!
ReplyDeleteNữa, bạn meo_beo lại ăn thua rồi. Bài viết giúp người đọc hiểu thêm về lịch sử báo chí Việt Nam bạn ơi.
ReplyDelete