Bài
viết sau đây của người bạn, người cùng tôn giáo với tôi là nhà thơ Trần Mạnh
Hảo. Ông tôn trọng và đánh giá cao 2 người mà ông coi đó là "nhà cách mạng
giải phóng con người". Đó là Chúa Giesu và Phật Thích Ca Mâu Ni. Điều này
đúng với tinh thần của Đức Giao Hoàng Francis đã nói là “Một người Ky Tô hữu
chân chính là một người biết tôn trọng các tôn giáo khác !”.
***
Albert Eintein nhà
bác học vĩ đại, tín đồ Ky Tô giáo sau khi nghiên cứu Phật giáo, đã nói : “ Phật
giáo sẽ là tôn giáo tương lai của nhân loại”. Leo Tolstoy – nhà văn Nga vĩ đại,
tín đồ Ky tô giáo Chính thống, chủ trương đấu tranh bất bạo động; Người được
thánh Mahatma Gandhi Ấn Độ tôn làm thầy, đã viết nhiều bài trên báo Nga thời
Nga hoàng ca ngợi đạo Phật. Tolstoy liền bị giáo hội Chính Thống Nga và Sa
hoàng rút phép thông công ( không chấp nhận ông là người Thiên Chúa giáo nữa).
Nhưng văn hào Nga này tuyên bố : “Tôi vẫn là người Ky Tô giáo” !
Thật may mắn, sau
nhiều thế kỷ khép kín và tự coi mình là tôn giáo duy nhất đúng, nay Đức giáo
hoàng Phan Xi Cô đã tuyến bố rằng : “Một người Ky Tô hữu chân chính là một
người biết tôn trọng các tôn giáo khác !” . Ý này thì Đức Đạt - Lai Lạt-Ma đã
nói từ lâu về tín đồ Phật giáo.
Ở Việt Nam, linh
mục Công giáo Thiện Cẩm ( cử nhân thần học, tiến sĩ đại học Sorbonne 1967) năm
1970 đã xuất bản ở Sài Gòn cuốn sách ca ngợi đạo Phật : “Quan niệm giải thoát
trong Phật giáo cũ”, nhưng tòa giám mục Sài Gòn đâu có làm khó dễ hay hạch tội
linh mục Thiện Cẩm. Một linh mục khác là nhà triết học Kim Định đã viết nhiều
sách nói về hành trình văn hóa Việt Nam, trong đó có nhiều trang ca ngợi Phật
giáo cũng không hề bị giáo hội nhắc nhở hay phạt vạ. Xem ra giáo hội Thiên Chúa
giáo ở miền Nam thoáng hơn giáo hội Thiên Chúa giáo miền Bắc trước năm 1975
nhiều.
Như tôi từng bộc
bạch, tôi có hai ông nội : ông nội ruột theo Phật giáo, ông nội nuôi bố tôi
từng tấm bé theo đạo Chúa. Tất nhiên, sinh ra sau khi làm phép rửa tội ở nhà
thờ, tôi đã là một Ky Tô hữu từ trong nôi. Nhà hai ông nội ở hai thôn khác nhau
nhưng rất gần nhau. Năm 10 tuổi, ngày ba mươi tết, bố mẹ sai tôi một mình xách
làn mây bánh chưng và rượu xuống tết ông nội ruột ( ông nội nuôi theo đạo Chúa
đã di cư vào Nam từ năm 1954). Trước bàn thờ Phật, ông tôi đang thắp hương cho
Phật, sau đó thắp hương cho bà nội đã mất của tôi. Nhìn ông thành kính, tôi
cũng thấy thiêng liêng. Ông bảo : cháu thắp hương cho bà không ? Tôi gật đầu !
Ông lại bảo : hai cây nhang, cháu thắp cho Phật trước, rồi mới thắp nhang cho
bà nội. Tôi thắp hương và xá như ông nội dạy ! Ông nội khen tôi ngoan và nói
Phật và bà nội sẽ phù hộ cho cháu… Tôi thấy lòng tràn ngập một nỗi gì rất cao
cả thiêng liêng…Hình như Phật tại tâm tôi thức dậy từ đấy !
Sau này lớn lên
tiếp xúc với sách vở Phật giáo, Thiên Chúa giáo tôi mới thấy trong tâm hồn mình
có cả Phật và Chúa. Phật giải thoát tôi ngay chính tại trần gian, Chúa giải
thoát tôi sau khi chết. Phật giúp tôi tìm thấy Niết bàn trong cõi này, Niết Bàn
trong chính tâm hồn mình khi mình giác ngộ trong từ bi hỉ xả, bỏ bớt tham sân
si, quẳng gánh lo tìm niềm vui sống. Chúa cho tôi hi vọng sự sống đời sau…
Thời Đức Phật tại
thế, Ấn Độ phân chia giai cấp khủng khiếp. Giai cấp thượng lưu nhất là Brahmana
( Bà La môn) tăng lữ. Giai cấp thứ hai Khattiya ( vua chúa, tướng lĩnh, quan
lại) cai quản xã hội. Giai cấp thứ ba là Vessa là lớp người trung lưu, thương
gia. Hai giai cấp cuối cùng, dưới đáy của xã hội là Sudra là lớp người lao động
chân tay, coi như nô lệ thấp hèn. Giai cấp cuối cùng không được coi là con
người có tên là Cadala còn tệ hơn một nô lệ nên có câu “giết một người Cadala
không có tội”…
Ngài Thích Ca Mầu
Ni sau nhiều năm theo đạo Bà La Môn để cầu nguyện Thượng Đế cứu đám đông nô lệ
khổ đau trong xã hội mãi không được, Ngài bèn không tin vào Thượng Đế nữa.
Tách con người khỏi
Thượng Đế để con người tìm cách tự cứu mình thoát khổ là tư tưởng, hành vi vĩ
đại của Đức Phật. Sau khi tu luyện thành công dưới bóng Bồ Đề, Đức Phật đã trao
vào tay con người chính số phận của mình, trao cho con người tự do lựa chọn để
tự mình giải thoát mình khỏi khổ nạn trần gian của một kiếp nô lệ tâm hồn ( nô
lệ thượng đế, nô lệ tăng lữ, nô lệ vua chúa, nô lệ của cải tiền bạc)… Cho nên
lúc đầu các tầng lớp nô lệ nhân dân đã tin theo Phật, theo Ngài để tìm cách
giải thoát mình khỏi vòng nô lệ thân xác và tâm hồn.
Phật chính là người
anh hùng giải phóng nô lệ đầu tiên của nhân loại xét trên bình diện xã hội. Đức
Phật đã trả lại nhân vị cho những kẻ nô lệ không được coi là người, đưa họ lên
chốn bình đẳng với các tầng lớp khác, trả cho họ quyền tự do...
Năm trăm năm sau
Đức Phật, con một người thợ mộc Do Thái là Jesus Nazaret đã rao giảng đạo Chúa
Trời cho các dân ngoại, dám chỉ trích quân xâm lược La Mã và chỉ trích các vị
trưởng tế giáo điều trong đền thờ Jerusalem, dám cầm roi đuổi bọn con buôn khỏi
đền thờ, xưng mình là Chúa cứu thế. Và Ngài đã bị đóng đanh trên cây thánh giá
để tìm tự do nhân phẩm và nước trời cho những kẻ nô lệ bị đế chế La Mã coi
không bằng con vật.
Ngài đã mang đến
nhân vị cho người nô lệ, coi những kẻ dưới đáy xã hội bằng nhau với vua chúa
quan lại. Đạo của Chúa Jesus ban đầu là đạo của nô lệ trên toàn cõi La Mã.
Sau cuộc nổi dậy
của nô lệ Spartacus nhằm giải phóng hàng triệu nô lệ trên toàn đế quốc La Mã bị
đàn áp khốc liệt, hàng vạn cây thánh giá dựng lên rợp trời đóng đinh hàng vạn
nô lệ nổi dậy khắp các bãi biển Địa Trung hải, hàng triệu nô lệ tiếp tục bị La
Mã đầy đọa trong địa ngục trần gian là các đấu trường, các đồng lúa, các công
xưởng…
Khi quân lính của
thầy cả Cai- Pha trưởng tế nhà thờ Jerusalem đến vườn Ghiết Si Ma Ni bắt Chúa
Jesus, Phê Rô đệ tử Ngài bèn lấy gươm chém đứt tai tên lính Man Cô. Chúa bèn
nhặt tai chú lính ấy và gắn vào tai cho lành, đoạn nói : “Phê Rô, hãy cất gươm
vào vỏ, KẺ NÀO DÙNG GƯƠM THÌ SẼ CHẾT VÌ GƯƠM”…
Chúa đã dùng vũ khí
tình thương để chống lại chế độ chiếm hữu nô lệ La Mã. Sau 300 năm, chế độ DUY
GƯƠM ( duy Mác Lê sau này) La Mã đã quy hàng trước Chúa : đế quốc La Mã của ma
quỷ nô lệ hóa con người đã trở lại đạo Thiên chúa từ thời vua Constantin.
Có thể nói, cùng
với Phật Thích Ca Mầu Ni 500 trước, Chúa Jesus đã trở thành vị anh hùng giải
phóng nô lệ vĩ đại nhất của nhân loại. Hai Ngài đã giải phóng con người khỏi sự
nô lệ của chính con người, để tâm hồn con người thoát khỏi sự nô lệ của ma quỷ
và bóng tối.
No comments:
Post a Comment