Vậy là Cha đã ra đi !
Giống như cây nến tan đi để đốt lên ngọn lửa, như que diêm tự
cháy mình để tỏa sáng màn đêm, Cha đã ra đi để lại ngọn lửa của công lý và trí
tuệ mãi soi đường chúng con. Con - người con nhỏ bé của Cha - xin nghiêng mình
bày tỏ lòng đau buồn và tiếc thương vô vạn đối với Cha.
Cha ơi ! tin Chúa gọi Cha về đến với
con đột ngột vì chỉ mấy tiếng trước đó con còn được bên Cha, nhìn thấy cha nheo
mắt cười và bàn tay nắm chặt. Con buồn, con nhớ và con bị câu thúc bởi những kỷ
niệm đầy lý trí nhưng cũng rất duy tình với Cha. Giờ đêm đã khuya con ngồi đây,
bùi ngùi ghi những dòng này xin vĩnh biệt một nhân cách, một tài năng mà con may
mắn được biết và làm con suốt hơn 20 năm trên cuộc đời này.
Cha ạ, bài giảng đầu tiên con nghe
Ngài là vào năm 1992 khi còn là một sinh viên nhưng bài giảng mà con nhớ nhất
là vào năm 2002 khi nhà nước khai quật Hoàng Thành Thăng Long. Hôm đó Cha đã
nói về sự sống, về thăng trầm của lịch sử và suy tàn của các triều đại qua các
di vật được tìm thấy. Cha đọc bài thơ "Ông Đồ" của cụ Vũ Đình Liên và
hỏi "Những người muôn năm cũ/Hồn ở
đâu bây giờ ?". Hôm nay, Cha đã
trở thành người "thiên cổ" và hồn của Cha chắc đã lên Thiên Đàng nhưng
- như Cha đã nói trong bài giảng đó - "Người
chết đang kéo xe cỗ xe sự sống". Vâng, theo một nghiên cứu khoa học hiện đại thì Cha vẫn còn sống đâu đây. Sóng vật
chất Cha vẫn còn vương vấn trong vũ trụ này. Qủa thật, nếu chúng ta trống rỗng
thì dù phổi đang căng, tim đang đập, chân tay đang múa may nhưng chúng ta cũng
đã chết. Nhưng nếu trong chúng ta chứa đầy giá trị thì dù thân xác đã ra đi, con
người vẫn sống. Sự sống đó tồn tại trong công trình Lọng Đức Bà Cha xây, trong bản
nhạc Cha soạn, trong giọng ca ấm cúng Cha cất lên, trong lời Cha giảng và trong
tình yêu Cha gieo trồng nơi từng anh chị em chúng con.... Gía trị Cha vẫn còn cài
cắm đầy rẫy quanh đây trong tim óc người khác và trong tâm hồn con. Hay nói
cách khác một ổ cứng "sống" vì nó có dữ liệu. Cha là một ổ cứng tinh
thần đầy đủ và nồng nàn truyền dẫn dữ liệu cho tha nhân !
Cha ơi, con nhớ lại vào tháng 5 năm
1990, Bác Quốc Anh của con từ Nghệ An ghi mấy dòng chữ giới thiệu cho con về một người bạn tù. Con lần
tìm đến số nhà 36 để đưa thư và gặp mặt cụ cố Vũ Thế Hùng. Từ khi con được nhận
"Á Phụ" - như cách nói của Cụ - con đã thường xuyên được đến căn
phòng nhỏ bé nằm trong ngôi nhà biệt thự để nghe Cụ nói về nhân tình thế thái,
về luật pháp của Phương tây, về "Tinh thần Pháp luật" của Montesquieu
và "Khế ước xã hội" của J.J Rousseau... Nhờ những lần trao đổi đó mà
con hiểu biết thêm được về luật pháp quốc tế và lịch sử thăng trầm của giáo hội
và xã hội Việt Nam. Con biết được mặc dù cụ Ông sinh ra ở Bùi Chu, Cụ bà người
Huế nhưng Cha Mathew lại sinh ra ở Thanh Hóa là vì khi đó cụ Ông đã được sắc
phong của triều đình nhà Nguyễn về làm Tri Phủ huyện Tĩnh Gia - Thanh Hóa. Con
đã được trực tiếp gặp nhân chứng sống là những nhà hoạt động tôn giáo trong thời
kỳ 1945-1954 ngay trong ngôi nhà 36 Trần Hưng Đạo. Cũng thông qua cụ cố mà con được
biết thêm về Bác Phùng Cung, về Cụ Tiến, Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, Bác Kiều Duy
Vĩnh.... con thấy được hàng loạt sự oan ức và ngang trái. Dần dần, ý thức về
pháp luật về lòng yêu mến công lý và khát khao đấu tranh cho công lý được cụ cố
giác ngộ trong con. May mắn thay, qua đó con được biết Ông Bà có một người con
làm linh mục là Cha Mathew. Không bao lâu sau, con được thấy người Cha cao lớn
lần đầu lúc Cha xách cặp mạnh mẽ bước "Về nhà 36 thăm Bố Mẹ" khi ra Thái Hà dâng lễ. Chủ
nhật hôm đó cũng là lần đầu tiên con được Nghe Bài giảng của Cha. Sau đó những
lần Cha ra Hà Nội ông bà Cố đều nhờ con đưa đến nhà thờ đi lễ hoặc nhắc con phải
đi dự lễ, nghe giảng lễ rồi về kể lại cho Ông Bà.
Cha ơi, Năm tháng trôi qua với bao
nhiêu khó khăn cho cả giáo xứ Thái Hà chúng ta, cho Giáo Hội Việt Nam và cả cá
nhân con. Vượt lên trên những đau khổ tột cùng, mãi khắc ghi trong tim con là
vòng tay của Cha vào ngày 11 tháng 4 năm 2011 khi con vừa được anh em đón về từ
nhà tù Hỏa Lò. Hôm đó mặc dù đã khuya, Cha Gioan Lưu Ngọc Quỳnh đề nghị Gia
đình Xa quê nán lại đón con. Con thấy xấu hổ và choáng ngợp trước tiếng chào
đón của những người anh em, và từ bên cánh cửa phải của Nhà thờ, Cha bước đến dang
một vòng tay thật rộng ôm con vào lòng. Nước mắt con cứ thế chảy dài. Con đã từng
được nhiều người yêu thương ôm chặt nhưng chưa bao giờ con thấy một vòng tay dang
rộng và sau đó ôm chặt mình như vậy. Nó diễn ra trong một khoảng khắc thật đặc
biệt và tràn đầy xúc động. Lúc đó ký ức tuổi thơ trỗi dậy, ở tuổi 40 con tự thấy
mình như đứa trẻ của nhiều chục năm trước, không chỉ nhỏ bé về hình thể, con
còn nhỏ bé về tình yêu thương, về trí tuệ để trọn vẹn nhỏ bé trong vòng tay của
Ngài.
Cha ơi, lần cách xa cha gần đây nhất
trong vòng 30 tháng, vợ con con thấy thật sự ấm lòng mỗi khi được về Thái Hà,
nơi đó có nhiều cha, nhưng đặc biệt là Cha luôn ân cần trao đổi, động viên vợ
con và các em của con. Mặc dù con bị cách ly xa xôi nhưng mỗi khi được thăm gặp,
Hiền luôn nhắc đến Cha, đến Cha Phong, Cha Quỳnh và các linh mục khác trong nhà
thờ đã cầu nguyện cho con, ủi an gia đình con trong những thời khắc khó khăn.
Là người tân tòng, vợ con đã thực sự học hỏi được rất nhiều từ những giáo huấn
về đức tin của Ngài qua biến cố của gia đình con. Chúng con còn nhớ ngày đứa
con thứ 3 ra đời, Cha đã đến tận bệnh viện phụ sản chúc lành cho cháu và đặt
tên Thánh của cháu là Clara Assisi. Từ đó gia đình con gọi cháu là Asi. Hôm qua
con nói Cha đã được Chúa gọi về. Asi đã bảo "Cha về Thiên đàng". Asi
đòi xem lại ảnh và chúng con cùng đọc kinh cầu nguyện cho ông. Cha ạ, quanh quất
đâu đây trong gia đình con vẫn còn trĩu nặng hình bóng Cha. Chúng con hy vọng đó
chính là những viên gạch xây dựng nên ngôi nhà đầy tình thương yêu Kito giáo.
Chúng con tri ân sâu nặng và xin tạ ơn Cha về tất cả những điều đó
Cha ơi, có một điều đã giúp đức tin
con trưởng thành hơn mà đã thông báo với Cha trong bức thư cuối năm 2014, con đã
đấu tranh suốt 2 tháng để được gửi ra cho Cha từ nhà tù An Điềm. Bức thư đó ban
đầu có 8 trang nhưng sau 2 tháng tranh cãi, cuối cùng họ gọt đi và chỉ còn 4
trang gửi về cho Cha. Con rất vui khi biết rằng bản gốc đã đến được được cha
Giuse Nguyễn Văn Phượng và một bản copy cũng đã được gửi cho Cha vì khi đó Cha
đang chữa bệnh bên Mỹ. Trong thư, ngoài những kỷ niệm sâu nặng với Cha và Ông
bà Cố, điều con vui mừng thông báo với Cha là mình đã được giải phóng khỏi sự
vướng mắc về đức tin khi đọc Kinh thánh phần Cựu ước và triết học. Con bối rối
về sự phát triển của tinh thần và vật chất, về sự tiến hóa "sinh quyển"
của Charles Darwin và Kinh Thánh. Có những lúc con hoang mang, lo lắng. Thế
nhưng nhờ vào cuốn sách "Hiện tượng con người" của cha Teihard De
Chardin do Cha giới thiệu mà con đã thực sự hiểu được một cách hài hòa về sự tiến
hóa sinh của "sinh quyển" và "tuệ quyển" cùng với đích hướng
đến của điểm Omega. Cuốn sách đã cho thấy một sự cộng hưởng và khả năng triển nở
của "Tuệ quyển". Cha ơi, đó thật sự là một biến cố trưởng thành về đức
tin của con. Nó bắt đầu do em Quyết đọc được bài giới thiệu của Cha và mua cuốn
sách gửi cho con đọc trong tù. Vì có thời gian nên con cũng nghiền ngẫm khá lâu.
Con thấy đúng như lời giới thiệu của Cha về cuốn sách là "Tiến trình tư duy khoa học trong sách đã cho ta nhìn thấy một chiều
kích mới của đức tin, giúp nhiều tâm hồn tìm ra những viễn cảnh mới mà Thần học
cổ điển kinh viện thời Trung Cổ và Cận đại không thể cung cấp". Con là
một tâm hồn như vậy, dường như bị tắc tịt trong tư duy và đã tìm ra được viễn cảnh
mới. Con đã được truyền một cảm hứng và lý luận cho đức tin thêm vững chắc và phong
phú. Tóm lại là con được "sáng mắt, sáng lòng" qua cuốn "Hiện Tượng
con người" do Cha viết giới thiệu.
Cha ạ, cách đây 20 ngày thôi khi đến
thăm Cha, dù đang nằm trên giường bệnh và rất yếu, cha vẫn tha thiết hỏi về những
vấn về xã hội, vẫn đau đáu trước tương lai của đất nước, dân tộc và giáo hội.
Cha hỏi han chi tiết và rõ ràng từng vấn đề một. Khi vợ chồng con ra về, Cha vẫn
giữ chặt tay níu lại, và nói thêm là Cha tin tưởng là nhiều thứ sẽ còn thay đổi
và đất nước sẽ có được dân chủ tự do, nhân dân sẽ ấm no. Cha quan tâm đến tương
lai của "Hiện tượng con người" và giá trị cuốn sách. Thế đó, cho đến
tận những ngày cuối cùng, cha vẫn sống trọn vẹn, đầy đủ từng giây phút. Cha vẫn
hết lòng hết sức cho người nghèo, cho công lý và sự thật, cho cả những vấn đề
thần học hiện đại. Cha vẫn cố gắng chiến đấu dẻo dai và có một niềm tin bền bỉ nhằm
chiến thắng bệnh tật.
Cha ơi, còn một điều mà khi đốt nén
hương lòng này con cũng phải viết ra để khẳng định một lời nói và cũng là để
minh oan cho Cha. Đó là trong bữa tiệc Xuân 2011, giữa 6 trí thức Hà Nội hơn 70
tuổi, con đã hỏi thẳng rằng: "Có phải
vào năm 1971 Cha đã từng mặc áo dòng đi rải truyền đơn chống chế độ Việt Nam Cộng
Hòa, làm lợi cho Cộng sản như một vị giám mục đã nói hay không ?". Cha
đã trả lời "Có ! nhưng không mặc áo
dòng và truyền đơn đó là kêu gọi hòa bình". Cha còn giải thích thêm là
"Khi đó khát vọng hòa bình lớn lao
chưa từng có, phủ lấp hết mọi chuyện". Con tin là cho đến hôm nay, khi
trút hơi thở cuối cùng về với Chúa - khát vọng đó vẫn mãi mãi bao trùm Cha. Trước
khi ra đi chỉ mấy tiếng đồng hồ, Cha đã nắm chặt tay con, nhìn vào con một cái
nhìn bình an sâu thẳm, chứa chan một khát vọng hòa bình. Như đã từng ghi thư
cho Cha, giữa bốn bức tường giam lạnh giá và những vòng dây thép gai bao quanh,
Con thấy được lòng yêu mến hòa bình và tinh thần bất bạo động của Cha. Cha là tấm
gương để con hằng ngày sám hối, học hỏi và canh tân hầu xứng đáng với những lời
huấn dạy của Cha.
Vĩnh biệt Cha khi một tác phẩm về
Cha đang dang dở, Vĩnh biệt Cha - một người tu sỹ trí tuệ có một không hai mà
con từng gặp - Vĩnh biệt thân xác Cha nhưng giá trị sống mà cha truyền dạy, sẽ
mãi vẫn còn đây, sống mãi với con và gia đình mình.
Hà Nội đêm 2/3/2016
Thật hay và xúc động khi đọc được những tình cảm quý báu giữa bạn và vị linh mục đáng kính vừa mới trở về với Chúa!
ReplyDelete