Sunday, May 24, 2009

ROH MOO HUYN TỰ TỬ !


Đây là một bài của Roh Gon Ho - con trai của Roh Moo Hyun - viết về cha mình vào năm 2002, khi Roh tranh cử tổng thống Hàn Quốc. Bản gốc từ cuốn sách tiếng Nhật viết về ứng cử viên này, xuất bản cuối năm đó (nhà Shindosha ấn hành thì phải, không nhớ lắm). Bản tiếng Việt tôi -Hidetoshi- dịch năm 2003, và là bản thảo thô, và chưa bao giờ được chỉnh sửa nên đọc lại thấy có nhiều chỗ chưa thoát, hôm nay nhân đọc tin Roh nhảy vực tự tử mới đăng lên đây để kỷ niệm. Chia buồn với các bạn Hàn Quốc và càng thêm kính trọng Roh Moo Huyn.

------

Người cha bình dị nhưng phi thường

Roh Gon Ho

1 Người cha rất bình dị

Đương nhiên tôi chưa bao giờ có ý nghĩ cha mình là một người vĩ đại. Cứ khi nào bạn bè tôi đến chơi ông lại có những chuyện làm mọi người ai cũng phải bật cười. Bạn bè tôi cứ nghĩ là gia đình một chính trị gia nổi tiếng, nhất định trong vườn phải có một anh chàng vệ sỹ trong bộ trang phục đen với một chú chó săn làm cảnh giới, mẹ phải mặc bộ trang phục truyền thống của Hàn Quốc, còn cha sẽ luôn bận rộn với việc liên lạc điện thoại. Nhưng đáng tiếc là không phải thế, khi nào bạn bè tôi đến chơi, mẹ tôi thường ra mở cửa vẫn với bộ dạng mới ngủ dậy còn cha tôi thì vẫn cầm tờ báo trong khi đang bận bộ đồ chạy thể thao.

Xin lỗi vì đã đụng chạm đến ảo tưởng của bạn bè nhưng tôi nghĩ rằng chẳng lẽ ở nhà của các chính trị gia khác cũng không giống như thế sao? Đối với cha tôi thì dù có là một nhà chính trị thế nào chăng nữa, cuộc sống thường nhật của gia đình cũng chẳng có gì khác biệt so với các gia đình khác.

Thực ra thì hầu như tôi cũng chưa có dịp gần gũi với cuộc sống của các nhà chính trị khác. Đúng ra thì tôi có cơ hội gặp gỡ với họ nhiều hơn những người khác, nhưng những lúc đó không phải là tôi không có suy nghĩ rằng họ cũng oai lắm chứ. Vì thường xuyên được các phương tiện thông tin đại chúng chú ý đến chẳng hạn. Không phải là giới nghệ sỹ hay nhà thể thao, mà là những người có vị trí cao trong xã hội, nên tôi nghĩ hẳn là cũng có chút gì đó hoành tránglắm. Do đó nên có lẽ những người khác trông vào cha tôi, cũng nghĩ như tôi rằng ắt hẳn ông phải có cái gì đó hơn người thường một chút.

Nói vậy nhưng bạn bè tôi và những người sống xung quanh bắt đầu nghĩ rằng cha tôi có điều gì đó đặc biệt là khi tôi học trung học năm thứ ba, tức là từ năm 1988 trở lại đây. Còn trước đó thì là một gia đình vô cùng bình thường. Hồi tôi còn nhỏ xíu, thỉnh thoảng được đi ăn tiệm thì cũng chỉ được ăn đến món mỳ Chanjan (Mỳ xào kiểu Hàn Quốc), sau đó một thời gian có lần vì ăn món Prugogi (lẩu kiểu Hàn Quốc) hoang phí một chút mà cha mẹ tôi đã cãi nhau, tôi ở bên cạnh chỉ biết khóc ri ri. Cha mẹ tôi luôn tức giận mỗi khi được biết là vì bị bạn đánh, trên đường về tôi đã đánh trả lại, hay là chuyện tôi tranh giành lon Coca Cola của em gái. Tình cảnh là như thế đấy.

Thỉnh thoảng cha tôi lại gói tài liệu mang về nhà làm, những lúc đó, ngay sau bữa ăn tối, cha tôi lại lấy gói tài liệu mở ra, đem xếp lên giữa bàn và ngồi làm việc. Buổi sáng ngủ dậy, tôi thường thấy cha tôi đang ngồi viết gì đó trong màn khói thuốc lá cuộn xung quanh. Ngay cả đến bây giờ nhớ lại, tôi vẫn thấy hình ảnh cha tôi phía sau màn khói thuốc thật là ấn tượng.

Cha tôi chưa bao giờ mua cho tôi những quà sinh nhật ví dụ như chuyện chàng trai Kyo San Doo dũng cảm cả. Ngay cả đến quà tặng chắc cha cũng chẳng nhớ mua cho tôi. Trong ký ức của tôi chỉ có đúng một lần cha mua cho một bộ truyện tranh Tam Quốc Chí dành cho trẻ em của ông Koo Woo Won mà thôi. Truyện đó rất hay và tôi đã đọc đi đọc lại hàng chục lần. Mấy năm trước đây tôi có nhắc lại chuyện đó nhưng cha chẳng nhớ chút gì về nó cả. Có lẽ bây giờ mà kể chuyện đó ông cũng không nhớ nữa.

Tôi cũng rất muốn miêu tả về cha mình như là một người cha đầy tình thương, luôn chú ý đến những chuyện nhỏ nhặt của con cái nhưng thành thật mà nói rằng cha không phải là mẫu người như vậy. Mẹ và em gái tôi ít nhiều cũng có phàn nàn về chuyện đó nhưng tôi thì hoàn toàn không để ý đến nên cũng chẳng thể nói được.

Đến giờ tôi vẫn lưu giữ ấn tượng hồi nhỏ là có một lần vào mùa hè tôi bị cha đánh vào mông. Tôi không nhớ rõ hồi mấy tuổi nhưng đó là vào khoảng lúc tôi mới vào tiểu học. Lúc đó cả gia đình sống ở vùng Nam Cheong Dong (Pusan), vào mùa hè, cả gia đình thường ngủ ở giữa tấm phản mà gió mát có thể lùa vào.

Vào một buổi tối mùa hè nóng nực, có một ông khách đến nhà tôi chơi. Tôi cứ nằng nặc đòi ngủ trên tấm phản mà ông ta đang ngồi. Khi ông khách về rồi, cha lấy tay đánh liên tiếp như tóe lửa vào mông tôi, nhưng thật là may mắn làm sao, tôi cầu cứu bà nội đang ở bên cạnh được. Thế là rốt cuộc, tôi nằm cuộn tròn trong vòng tay bà nội giữa tấm phản, vừa khóc tỉ ti vừa định đi ngủ thì nghe thấy một âm thanh không bình thường ở nơi góc phòng.

Hình như là vừa có tiếng khóc rấm rức, vừa có tiếng nói khe khẽ…. Đấy có phải là tiếng khóc của cha hay không thì thực tình tôi cũng không đoán chắc. Thế nhưng lúc đó, còn ngây thơ, tôi cứ khóc tỉ ti và rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Còn việc vì sao cha tôi lại khóc, vì giận đứa con trai đành hanh hay buồn vì đã đánh con đau, đến giờ tôi cũng không rõ nữa.

Tôi vẫn giữ kỷ niệm về chuyện đó như là một bí mật tới tận bây giờ. Hẳn là cha cũng chẳng nhớ gì về nó. Lúc đó, với bộ óc ngây thơ, tôi lo là vì đánh tôi nên cha khóc, bởi vậy tôi rất buồn. Đến giờ tôi vẫn muốn hỏi cha: “Lúc đó tâm trạng của cha thế nào? Cha đã khóc, phải không cha?” Thế nhưng, vì không muốn xóa đi kỷ niệm sinh động đó của thời thơ ấu, chỉ thỉnh thoảng tôi lại một mình nhớ tới nó. Sau đó, tôi còn vài lần bị đánh nữa nhưng đó là lần mà tôi rất ngượng, nên tôi nhớ mãi.

Thời đó tôi còn nhớ một chuyện nữa. Có lẽ trong số các độc giả có người biết đến môn toán của các trung tâm dạy thêm. Hàng ngày tôi phải làm được một số nhất định các bài tập toán. Vấn đề đối với tôi không phải là lợi tức của người lao động ra sao mà là các bài tập ngày càng chồng chất chưa làm được.

Rốt cuộc là vì bị mẹ mắng, nên cũng đã đến ngày tôi phải giải quyết xong tất cả các bài tập toán ở lớp học thêm dồn trong mấy tháng vừa qua. Chán quá, chẳng biết làm thế nào, tôi đã bật khóc. 10 giờ tối (lúc đó 9 giờ là tôi phải lên giường đi ngủ rồi), cha gọi tôi lại và bảo mặc áo khoác vào.

Tôi lo lắng, hay là cha chuẩn bị đuổi mình ra khỏi nhà đây. Hóa ra là cha đưa tôi đi xem cuộc sống về đêm của những người lao động. Chưa bao giờ tôi ra khỏi nhà vào nửa đêm như thế cả. Cha nắm tay tôi, dắt vào các cửa hàng, đến những quầy ăn đêm, ghé vào mua hang cho những người bán dạo. Hai cha con vừa nói chuyện, vừa bước theo nhịp hành quân đêm trên đường. Bây giờ nghĩ lại, tôi mới biết là lúc đó cha dẫn tôi đi để cho tôi một lần tận mắt thấy được người ta đã vất vả lam lũ thế nào vì kế sinh nhai. Thế nhưng lúc đó còn quá nhỏ, nên tôi không thể cảm nhận được điều đó.

Dù sao vì đã đi bộ xa quá nên hai cha con chúng tôi trở về nhà bằng taxi. Tôi vẫn nhớ khi chạy qua tấm bảng đồng hồ điện tử của một tòa nhà, tôi nhìn thấy là nó đã chỉ sang quá 2 giờ đêm. Vào thời điểm đó đối với tôi thì 2 giờ là một thời khắc kinh khủng lắm. Chính vì thế mà ngày hôm sau tôi đã đến trường muộn.

Hình như là lúc đó cha không có ý định “thúc cho tuấn mã chạy nhanh, hay là sư tử vứt con từ vách đá” gì cả. Sau đó, cha nói “Không được ép buộc làm những điều không thích” và cho phép tôi bỏ học môn Toán ở trung tâm luyện thi đó. Cũng từ đó về sau, cha không bao giờ bắt tôi phải làm những gì tôi không thích. Ngay cả việc học hành cũng vậy. Thực ra là về sau này, cha tôi cũng hơi ân hận về chuyện đó. Cha thường bảo “Nếu như lúc đó mà cha “thúc cho tuấn mã chạy nhanh”….” Tôi không phải là tuấn mã, nhưng mà quả tình là tôi cảm thấy rất mừng là vào lúc đó không phải đi học thêm môn Toán nữa.

2. Người cha không kiếm tiền

Cuộc sống bình thường của gia đình tôi thay đổi ít nhiều từ khi cha tôi bắt đầu quan tâm đến các vấn đề xã hội. Nói là thay đổi, nhưng cũng chẳng phải là thay đổi gì ghê gớm cả. Chỉ ở mức độ là cha mẹ thường hay cãi nhau hơn, rồi tôi lại hay thấy mẹ bỉểu lộ sự lo lắng hon.

Sau này tôi mới hiểu rõ rằng, khi tôi vào trung học, tức là khi cha tôi tham gia vào cuộc vận động xã hội được biết với tên là “Sự kiện Pusan”, cuộc sống gia đình tôi bắt đầu biến chuyển. Cha tôi ngày càng gắn bó với cuộc vận động xã hội hơn, lúc tôi vào trung học, cha cũng đóng cửa văn phòng luật sư để chuyên tâm vào vận động xã hội. Tất nhiên là tiếp tục cuộc sống không kiếm được tiền, nên dường như mẹ tôi rơi vào trạng thái căng thẳng thần kinh vì lo nghĩ đến vấn đề kinh tế gia đình. Cha không phải là người con của một gia đình giàu có, công việc luật sư cũng chưa kéo dài được lâu, cha cũng không có bất động sản hay khoản tiền riêng lớn nên bây giờ tôi có thể hiểu được tình trạng căng thẳng của mẹ.

Thế nhưng, tôi vẫn đi học bình thường. Một đứa trẻ đang học tiểu học như tôi làm sau có thể biết được sự lo lắng của bố mẹ, và tôi lại thuộc loại khá chậm hiểu, nên tốt nghiệp tiểu học là vào trung học thôi, chứ có nghĩ ngợi gì đâu. Lúc đó tôi vẫn thường xuyên đi đá bóng say sưa đến mức có lần gãy tay vì ngã từ khung thành xuống; lại cũng hay bị bố mẹ mắng vì la cà ở các hiệu cho thuê sách hay là các tụ điểm vui chơi. Đến tận bây giờ, những người bạn cùng chơi ở chỗ đó vẫn là những người bạn thân nhất của tôi.

Thỉnh thoảng, vào các buổi tối khuya hay có những vị khách đến nhà tôi chơi, bây giờ nghĩ lại, chắc hẳn họ là những sinh viên hay thành viên của các nhóm vận động xã hội có liên quan đến “sự kiện Pusan”. Sau này, khi đọc những bài viết của cha khi ông thành một nhà chính trị hay là các sách vở viết về ông, tôi mới thấy rằng, “sự kiện Pusan” được coi là một sự thức tỉnh về mặt xã hội của cha. Trong tiểu sử của cha đăng trên các báo chỉ vẻn vẹn có một dòng “Bắt đầu hoạt động bảo vệ nhân quyền từ sự kiện Pusan” mà thôi. Thế nhưng, nếu đứng ở vị trí gia đình thì từ đó trở về sau thực sự là một sự thay đổi lớn lao.

Gần đây, hồi tưởng lại thời gian đó, tôi không thể nghĩ rằng đó là một sự thức tỉnh về tổ chức xã hội của cha tôi. Trong suy nghĩ của tôi, đơn giản là dường như cha tôi đã bị cuốn theo cuộc vận động xã hội “phẫn nộ với nhà cầm quyền đã dùng các biện pháp tra tấn dã man”. Cha tôi không phải là một người xuất thân từ một cuộc đời công nhân khổ cực, bằng ý chí của mình vươn lên, lập thuyết tố cáo sự bất công, hay là một vị con nhà quyền thế, nhận thức được những điều vô lý của xã hội để cải tạo nó. Thành thật mà nói, lúc đó trông vào tình cảnh các sinh viên bị đánh đập đến thâm tím mặt mày, có lẽ cha cũng chỉ phản đối bằng lời nói: “Hãy chú ý đến họ một chút” mà thôi.

Thế nhưng, lúc đó, có vẻ như những người sinh viên bị tra tấn gần đến mức thập tử nhất sinh. Cha không phải là người có tấm lòng nghĩa hiệp hay là “giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha” mà chẳng qua bất kỳ ai nếu tận mắt chứng kiến những chuyện đó nhất định cũng sẽ không thể cảm thấy vô cùng phẫn nộ trước sự đối xử vô nhân đạo của chính quyền độc tài quân sự. Trong một tài liệu của cha có viết “Móng tay, móng chân của họ toác hết, thân thể đầy những vết bầm tím, không thể đi lại bình thường được”. Thật không khác gì lao ngục thời phong kiến Triều Tiên!

Tôi nghĩ rằng, để nói về việc cha tham gia phong trào vận động xã hội thật ra chỉ ở mức độ là “không được đánh đập” mà thôi. Bây giờ , dù đã là nhà chính trị nhưng chẳng mấy khi cha nhắc đến những vấn đề “kiến trúc thượng tầng” như là thể chế chính trị, cơ cấu kinh tế hay bản sắc dân tộc cả. Khẩu hiệu “Vì một thế giới sinh sống của con người” của cha trong kỳ bầu cử quốc hội lần thứ 13 (từ đây sẽ gọi tắt là bầu cử quốc hội), cũng vẫn có cảm giác như vậy.

Lúc đó, cha không nói cho tôi về đường hướng đó. Vì thế cho nên tôi chẳng suy nghĩ rằng cha tham gia phong trào vận động xã hội như thế nào, và tại sao. Do đó, những chuyện hồi đó chỉ là suy đoán của tôi mà thôi, chứ suy nghĩ của cha lúc bấy giờ thế nào tôi cũng biết rõ.

Ngược lại, tôi vẫn còn lưu giữ rất nhiều kỷ niệm về những phản ứng rất mẫn cảm mà mẹ tôi và những người xung quanh biểu lộ. Cha mẹ thường xuyên bất hòa với nhau, không chỉ là việc mẹ không thích thú gì việc cha tham gia vào phong trào vận động xã hội mà dường như việc cha vứt bỏ công việc để chuyên chú vào hoạt động xã hội làm mẹ bực mình nhất. Thỉnh thoảng, bà con đến chơi, tôi lại nghe được những chuyện lo lắng về cuộc sống, và bà tôi (bà mới mất cách đây vài năm) cũng thường xuyên phàn nàn về cha.

Năm 1987, tôi vào năm thứ 2 trung học. Nếu nhìn vào tiểu sử của cha, tháng 1 năm đó cha tôi trương lên tấm biển hiệu Văn Phòng Tư Vấn Luật Lao Động, tập trung vào việc hành nghề luật sư chuyên về các vấn đề lao động. Rồi tiếp theo sau đó là các sự kiện lớn như vụ tranh tụng tháng Sáu, Tuyên bố 29 Tháng Sáu, Tổng đình công của công nhân toàn quốc, bầu cử tổng thống,…Đó là thời gian mà vì sự kiện ông Pak Choeng Chul và Il Han Neol, cuộc biểu tình quy mô lớn tháng Sáu tiếp diễn, cha không lúc nào về nhà cả, mẹ chỉ biết nắm tay em gái tôi, nước mắt rơi lã chã, đi vòng quanh các phố để tìm cha tôi.

Lúc đó xem tin tức thời sự trên TV thì số người tham gia biểu tình trên đường phố rất nhiều, bây giờ nghĩ lại, tôi vẫn thấy quanh cảnh lúc đó thật là hùng vĩ. Nghĩ rằng cha đang ở đâu đó trong đám đông kia, đang cầm loa diễn thuyết, tôi chợt muốn lao ra phố để tận mắt thấy tình hình. Nếu mẹ mà không trừng mắt tức giận thì chắc chắn là tôi đã ba chân bốn cẳng chạy ra xem rồi.

Sau Tuyên bố ngày 29 tháng Sáu, cuộc biểu tình trở nên lắng dịu đôi chút. Thế nhưng ngay sau đó là bắt đầu một chuỗi ngày dài cha không trở về nhà. Sau này tôi mới biết là lúc đó cha đã đến nơi nổ ra vụ bãi công của công nhân nhà máy đóng tàu Daewoo. Hình ảnh một tay cầm micro đang nhiệt tình diễn thuyết của cha tôi thường xuyên được đưa lên TV, nhưng vì người ta không đưa tiếng nên tôi không biết được cha đã nói gì. Dù sao chăng nữa, sau vài lần diễn ra như vậy, đến một hôm truyền hình đưa tin cha đã bị bắt giam. Lúc đó, bà nội và mấy người bà con tập trung đến nhà tôi để theo dõi bản tin lúc 9 giờ. Tôi nhớ là ngay sau khi nghe tin được phát trên đài truyền thanh, tất cả mọi người đang xem TV đều bật thét lên.

Vấn đề là lúc đó tôi không hiểu chính xác bị bắt giam có nghĩa là gì. Là một việc gì đó khủng khiếp lắm nhưng tôi không hề có cảm giác là cha bị bắt đưa đi đến nhà tù. Một vài ngày sau đó, mẹ dẫn tôi và em gái mang thức ăn đến tiếp tế cho cha tôi tại nhà giam. Dù nhìn thấy cha trong bộ quần áo tù nhân nhưng tôi chỉ cảm thấy có một điều gì đó khác thường khó có thể nói ra thành lời mà không hề có cảm tưởng rằng việc cha bị vào tù là sự thực. Lúc đó vì cha nói với tôi “Cha không hề phạm tội gì cả, nên đừng có lo lắng quá” nên tôi cũng không thấy lo lắng gì cả. Tôi chỉ cảm thấy rằng, trước đây thỉnh thoảng cha cũng không về nhà, và hẳn là mấy ngày nữa cha sẽ về nhà, thay bộ quần áo khác, và lại đi tiếp mà thôi. Cũng hơi cảm thấy có điều gì đó không bình thường, nhưng tôi không hề cảm thấy lo lắng hay sợ hãi chút nào. Nhưng dù có như vậy, tôi vẫn nhớ rất sâu sắc ấn tượng về không khí của trại giam lúc đó. Bây giờ tôi vẫn nhớ rằng chỗ đó hơi tối, yên tĩnh, có gì đó giống như một bệnh viện, lại cũng giống như một nhà tang lễ. Sau đó hơn 20 ngày, cha được thả ra, và tôi nghĩ rằng người ta đã tuyên bố là cha vô tội. Nếu sinh hoạt hàng ngày có gì đó thay đổi so với trước kia, thì là xung quanh gia đình tôi luôn luôn có những cảnh sát mặc thường phục đi đi lại lại. Có lẽ là họ canh chừng sợ cha tôi trốn đi, nhưng cũng tốt một điều là nhờ đó mà gia đình tôi và các nhà hàng xóm không cần phải luôn luôn đóng cửa để đề phòng kẻ trộm nữa.

Cha cũng có lần nói rằng “Họ không phải là những người xấu, họ chỉ cố gắng thực hiện công việc được giao của mình mà thôi”, và tôi cũng như em gái thường xuyên bắt chuyện, chào hỏi hết sức thân thiện với họ mỗi khi đến trường hay tan học. Nếu bạn mà nghe được những chuyện đó thì có lẽ sẽ thấy rằng tôi chào hỏi lễ phép quá mức đối với những người cảnh sát đó. Nếu nghĩ rằng một đứa con trai mà lại đi nói chuyện thân thiện với những người đang định bắt cha mình thì ngay cả tôi cũng cảm thấy là có vẻ như hơi không bình thường.

Cũng có lần khi đi học về, tôi nhìn thấy cha tôi và những người cảnh sát đó đang ngồi vòng tròn trò chuyện gì đó trên bãi cỏ của khu nhà tập thể phía trước nhà tôi. Có lẽ hàng xóm láng giềng mà trông vào cảnh tượng đó thì sẽ thấy rất thú vị, nhưng nếu đứng từ vị trí của vị quan chức đã phái những người cảnh sát đó thì hẳn là ông ta sẽ làm cho đến nơi đến chốn. Còn đối với tôi, hình ảnh đó của cha thực sự là rất tuyệt vời. Về sau này khi được học một môn gọi là chính sách cảnh sát, khi được nghe giải thích là “đối với những tội phạm về tư tưởng thì phải cho vào biệt giam”, tự dưng tôi lại nhớ đến thời đó và không khỏi bật cười.

3. Cha trở thành một người nổi tiếng

Công việc của cha có thay đổi ra sao chăng nữa thì cuộc sống của tôi cũng không có gì thay đổi. Bị bắt giam theo điều luật cấm người thứ ba có mặt tại hiện trường cuộc đình công của công nhân nhà máy đóng tàu Daewoo, rồi được thả ra sau 20 ngày ngồi tù, đến tháng 12 sau khi cha nhận được lệnh đóng cửa văn phòng luật sư, cha được tổng thống tiền nhiệm Kim Young Sam mời tham gia chính giới. Vào thời điểm đó, cha phải đối mặt với rất nhiều sự kiện được cho bước ngoặt trong cuộc đời, còn tôi thì cứ học hết năm thứ 2 trung học là tiếp lên năm thứ 3 thôi.

Năm 1988, lúc đó tôi đang là học sinh năm thứ 3 trung học thì mùa xuân năm đó diễn ra cuộc tổng tuyển cử, cha trở thành ứng cử viên của khu bầu cử phía Đông Pusan. Tuyển cử thời đó diễn ra dưới bầu không khí không thể nói là ôn hòa được. Tại văn phòng bầu cử, luôn có những thanh gậy vuông hoặc gậy đánh bóng chày, thiết bị cứu hỏa nhằm đề phòng bất trắc, cha đi đâu cũng luôn có hai người vệ sĩ đi cùng. Cũng có người đã bị những người ủng hộ cho phe đối phương vây đánh đến chảy máu, thực tế con trai của luật sư Kim Gwang Il, người ra ứng cử ở khu bầu cử Trung đã bị bắt cóc. Mẹ tôi rất muốn có người bảo vệ tôi và em gái, nhưng cha chỉ nói vẻn vẹn một câu là không cần thiết, vậy là thôi. Thực ra, tôi nghĩ rằng vì tôi mà đi học cùng với một người vệ sĩ là một chuyện khó coi nên cha đã không cho làm như vậy.

Năm 1988, ngay sau khi cha trúng cử tại khu Đông Pusan trong kỳ tổng tuyển cử quốc hội lần thứ 13, mẹ tôi liền chuẩn bị cho việc cả nhà chuyển lên Seoul (đôi khi cũng có người cho rằng nghị sỹ trúng cử ở nơi nào thì phải sống ở nơi đó, nhưng thực tế điều đó rất khó). Từ đó trở về sau, cha trở thành một người nổi tiếng.

Tại lớp học của trường tôi mới chuyển đến có trang bị TV. Sau ngày quốc hội khai mạc, vì bị cuốn vào bầu không khí nóng bỏng của các cuộc tranh luận tại quốc hội, thày giáo, một người rất quan tâm đến chuyện đó, thường xuyên cho học sinh theo dõi các cuộc tranh luận tại quốc hội ngay trong giờ học. Có một hôm, cả lớp chúng tôi đang theo dõi kỳ họp trong giờ học, thì cha tôi xuất hiện trên TV. Vào đúng khoảng khắc đó, chẳng nói chẳng rằng, cả thày giáo và cả lớp đều dồn ánh mắt về phía tôi. Lúc đó tôi cảm thấy ngượng vô cùng!

Trong số các độc giả của bài viết này hẳn có nhiều người nhớ đến các cuộc tranh luận tại quốc hội, nhưng cũng có thể có nhiều người không được chứng kiến, nhưng dầu sao chăng nữa, từ cuộc tranh luận đó mà cha tôi trở nên rất nổi tiếng. Thực ra ngay cả đến bây giờ, mọi người trong gia đình tôi vẫn thường nghĩ là nếu cha mà không trở nên nổi tiếng thì sao nhỉ? Đúng là từ khi cha tôi thành người nổi tiếng, gia đình tôi ngày càng gặp nhiều chuyện phiền phức nhưng đó chỉ là một chuyện không đáng kể, và để vượt qua được nó cũng không cần một sự huấn luyện đáng kể nào.

Sau khi cha tôi trở thành người nổi tiếng, tôi cho rằng mình cảm nhận được tác dụng phụ của điều đó một cách rõ ràng nhất là vào khoảng tháng 12 năm 1988. Lúc đó cha đang diễn thuyết trước công đoàn của nhà máy công nghiệp nặng Hyundai tại Ulsan, trên các tin đưa ở báo chí có những câu diễn thuyết như là “Nếu có hai mươi người như tôi, có thể làm lay chuyển cả quốc hội” hay “Tôi có thể trúng cử dù có ra ứng cử tại bất cứ đâu trên đất nước Đại Hàn Dân Quốc này”. Khi bài báo này gặp vấn đề, tôi được ngồi cạnh xem cha tôi cùng với một số người trợ lý mấy lần kiểm tra lại băng ghi âm xem cha tôi có phát ngôn những điều như vậy không. Nội dung cha nói lúc đó là “Nếu có thể đưa 20 đại biểu của giới công nhân vào quốc hội, thì có lẽ tôi cũng cảm thấy thoải mái dễ chịu phần nào” và “(tại khu bầu cử Đông Ulsannày) Xin hãy bầu cho một người là đại diện cho giới lao động. Nếu như tôi dù có đi bất cứ nơi nào khác thì đó chẳng phải cũng là một điều tốt hay sao?”.

Hãy tạm gác chuyện cha tôi đã nói những gì, hay tại sao báo chí lại đưa những tin đầy ác ý như vậy, điều phiền phức là gia đình tôi đã nhận được vô số các cú điện thoại hăm dọa. Lúc đó tôi đang đứng trước kỳ thi vào trung học, vì cũng giống như những người khác ở tuổi 16, tức là một thời điểm rất nhạy cảm, nên quả thực là tôi đã không thể nào chịu đựng được những cú điện thoại kiểu như thế. Tôi hoàn toàn không phải là người có thể nhẫn nhục chịu đựng những cú điện thoại nặc danh chửi rủa cha mình. Phần lớn các cú điện thoại vừa định chửi bới là tôi dập ngay lập tức, tôi hết sức tức giận và khóc nức nở. Thô bạo hơn cả là những người với giọng điệu cực kỳ mềm dẻo, nói chuyển điện thoại cho cha tôi, tôi vừa trả lời một cách hết sức nghiêm túc là lúc này cha không có nhà, họ liền tuôn ra một tràng những từ bẩn thỉu không thể kể ra đây được.

Bởi vì chuyện đó, nên gia đình tôi cố gắng tránh không nghe điện thoại, và đến tận bây giờ vẫn ghét sử dụng điện thoại, dù có điện thoại gọi tới mọi người cũng nhìn nhau ngầm nhắc rằng không ra nhấc máy. Cũng vì them chuyện đó mà tôi trở nên không có cảm tình với báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng. Tất nhiên, thời gian gần đây tất cả mọi người trong gia đình đã có thể miễn dịch được, nên dù chuyện có khá ầm ĩ chăng nữa thì cũng chẳng ai lấy làm ngạc nhiên cả, nhưng quả là nghĩ lại thời gian đó, mọi chuyện cứ giống như một giấc mơ (?!) vậy.

4. Người cha không vào hang cọp

Đã có rất nhiều sự kiện xảy ra kể từ khi cha tôi trở thành một ngôi sao trên diễn đàn tranh luận tại quốc hội. Báo chí hay đưa tin về những vấn đề như là từ chức nghị sĩ quốc hội, hay là sự kiện cha tôi ném thẻ tên nghị sĩ,… Những lúc như vậy, ở trường tôi thường nhận được những ánh mắt thiện cảm của những người xung quanh. Mọi người thường không biết được rằng phần lớn những chuyện có liên quan đến cha tôi biết được là nhờ báo chí hay các phương tiện truyền thông đại chúng, chứ không thể được nghe trực tiếp từ cha. Bởi vì ngay cả đến bây giờ hầu như cha cũng không kể về các sự kiện đó nên bao giờ những người trong gia đình chúng tôi cũng biết chuyện về cha chậm hơn những người khác.

Vào năm 1990, khi tổng thống tiền nhiệm Kim Young Sam tuyên bố “Không vào hang cọp không bắt được cọp con” và thúc đẩy sự thống nhất 3 đảng, cha tôi phản đối rất kịch liệt, rốt cuộc cha cùng với vài người khác lựa chọn việc ở lại. Trong chương trình “Thời đại Kim (Young) Sam” vừa được phát trên truyền hình, tôi được trông thấy hình dáng của cha đang phản đối việc thống nhất 3 đảng, quả tình là cha đã cười một cách khổ sở. Dù cha có lớn tiếng phản đối “Không có sự bàn bạc nào hết, không có thỏa thuận nào cả…”, tôi không nghe rõ phần sau, nhưng ông đã bị vài người ở phía sau túm lại, kéo về phía sau.

Tôi nhớ là trên thực tế thì vào thời điểm thống nhất ba đảng sự tình khác phần lớn các sự kiện xảy ra trước đó, không có những ý kiến bất đồng nào của mẹ tôi cả. Thực ra trước đó, có nhiều chuyện giữa làm cho mẹ tôi không đồng ý với cha. Thế nhưng trong sự kiện thống nhất ba đảng thì cả cha và mẹ tôi đều không nói gì và để cho mọi chuyện diễn ra một cách bình lặng. Thời gian gần đây mẹ tôi có nói thế này “Nếu có làm gì đi chăng nữa thì cũng đâu có thể thay đổi được cha con đâu”

Sau khi ba đảng thống nhất, năm 1992 tôi vào đại học, cũng là năm cha thất bại trong cuộc tổng tuyển cử quốc hội, rồi sau đó liên tiếp thất bại tại cuộc bầu cử thị trưởng thành phố Pusan, và cả bầu cử ở khu Juro (thủ đô Seoul). Suốt từ đó cho đến năm 1998, lúc thắng cử tại cuộc bầu cử bổ sung của khu Juro, trong vòng 7 năm, cha hoạt động ngoài quốc hội. Thời gian gần đây, xung quanh việc ra ứng cử tại khu Giang Tây thành phố Pusan, cha có vẻ hối tiếc với những người xấu (ra ứng cử) với ý đồ chính trị. Tất nhiên, không phải ra ứng cử ở Pusan mà không có mục tiêu chính trị, nhưng một người mà trong 7 năm liền không thể vào được quốc hội thì cũng đã có những lúc tôi muốn hỏi xem là có phải chỉ vì thế mà thực lòng nghĩ đến việc ra đua tranh ở một nơi tử địa như thế không?

Bất kể là mọi chuyện ra sao chăng nữa, tháng 3 năm 1993 tôi vào quân đội. Tôi cũng sợ phải nhập ngũ nhưng tôi chưa bao giờ có những ý nghĩ như là dù không đi cũng chẳng sao hay là có thể được đến những nơi thú vị cả. Kiểm tra sức khỏe tôi vừa vặn trúng tuyển. Chán việc học hành ở trường đại học, rồi lại có nhiều chuyện buồn phiền nên vào năm thứ nhất tôi đã nộp đơn xin nhập ngũ trước những người khác, vừa uống rượu vừa chờ đợi thì vào tháng ba giấy gọi nhập ngũ đến, thế là tôi vào đoàn bộ binh đóng ở Chun Cheong.

Sau khi kết thúc khóa huấn luyện binh sĩ mới, tôi đang chờ cơ hội được phân vào trung đoàn thì tôi nghe phong thanh có tin là những người tiểu đội trưởng không muốn tiếp nhận tôi. Mặc dù cha là người nổi tiếng nhưng lại không có sự nhờ vả gì đặc biệt, nên họ nghĩ rẳng nếu xảy ra sự việc gì thì thật là đáng sợ, nên hình như ai cũng có muốn tránh tôi. Cuối cùng thì tiểu đội trưởng pháo binh cũng nhận tôi, và thế là tôi đảm nhận khẩu pháo cự ly 60 m, và bắt đầu cuộc sống binh nghiệp thực sự. Về sau này tôi mới hiểu, vì rằng vào lúc đó tiểu đội trưởng có ý định chuẩn bị giải ngũ, vả lại nhiệm kỳ của cả trung đội trưởng và đại đội trưởng cũng không còn kéo dài lâu nữa, sắp chuyển sang đơn vị khác, tiểu đoàn trưởng cũng là người khác. Sự việc của tôi được giải quyết thế nào thì lúc đó rốt cuộc tôi cũng hiểu ra.

Thời gian ở trong quân đội là lúc mà tôi có nhiều kỷ niệm. Tôi nhớ về chuyện lúc nào cũng hành quân tại đơn vị được cho là hành quân nhiều nhất. Hành quân cả ngày lẫn đêm, hành quân cả những lúc trời mưa hay lúc tuyểt rơi. Bởi vì thường xuyên đi quanh những ngọn núi bao quanh sông Chon Cheong, cho nên ngay đến cả bây giờ tôi cũng không đi tới các ngọn núi nữa. Tôi nhớ ngay từ buổi huấn luyện hành quân đầu tiên đã bị hứng chịu trời mưa, mặc dù khi ngủ tôi vẫn ngủ, nhưng sau khi đầu óc lúc nào cũng căng thẳng đến mức bực mình tôi ngủ luôn. Nếu là một chàng trai đã vào quân đội, chắc là ai cũng như tôi, tức là có thể viết những chuyện trong quân ngũ thành tiểu thuyết nhiều tập, nhưng có vẻ như nếu cứ để nguyên thế thì hay hơn.

Chẳng có chuyện gì đặc biệt cả, không thể nói là tôi đã sống thời gian trong quân đội một cách tốt đẹp, dù có thường xuyên bị nói xấu, nhưng nếu chỉ có thế thôi thì chấp nhận được, dầu sao chăng nữa tôi cũng đã có thể đón ngày giải ngũ một cách bình thường như những người khác. Bây giờ thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ đến những người cùng trong tiểu đội, những người đã đối xử với tôi rất tốt. Đặc biệt là với những người nhập ngũ trước, chẳng hạn nghĩ rằng chẳng mấy chốc tôi sẽ chuyển sang chỗ nhẹ nhàng hơn, nên ban đầu ít nhiều có đối xử lạnh nhạt với tôi nhưng cùng sinh hoạt với nhau dần dần mọi chuyện cũng tốt đẹp hơn. Có phải vì tôi không thì không biết nhưng trong tiểu đội của tôi hầu như không có những chuyện bạo lực. Theo kinh nghiệm của tôi, để có thể trừ bỏ được vấn đề bạo lực trong quân đội, nên chăng gửi con trai của những người hơi nổi tiếng một chút vào các tiểu đội?

Trong thời gian tôi ở trong quân đội, cha chỉ đến gặp tôi duy nhất một lần. Đó đúng vào ngày diễn ra lễ hoàn thành khóa huấn luyện binh sĩ mới. Từ hôm đó về sau, cha không lần nào đến gặp tôi, hay thậm chí là viết thư cho tôi. Nếu cha không làm như vậy, thì chắc hẳn là đơn vị sẽ cảm thấy phải có trách nhiệm đối với tôi cũng nên.

Thay vào đó, tôi vẫn còn nhớ là trước khi tôi nhập ngũ, cha đã nói rất nhiều chuyện với tôi, đến bây giờ có những chuyện đã trở thành châm ngôn đối với tôi. “Đồng tiền luôn luôn có hai mặt. Bây giờ con vào quân đội có vẻ là lãng phí thời gian, phải nhận những công việc mà mình không thích, nhưng nhất định không phải toàn là chuyện không tốt. Rốt cuộc, vì tất cả mọi chuyện trong thế gian này đều có cả mặt tốt và mặt xấu, nên con phải vui vẻ mà vượt qua những điều không thể tránh khỏi”.

5. Người cha hướng tới chức tổng thống

Trong thời gian tôi ở trong quân đội là lúc cha tôi đang nếm trải vị đắng sau cuộc bầu cử thị trưởng thành phố Pusan. Sau mấy lần thất cử, cha có ý định mở lại văn phòng luật sư, nhưng có vẻ như là với thời gian 10 năm gác bỏ công việc luật sư, công việc không hoàn toàn là điều đơn giản. Tôi giải ngũ vào tháng 5 năm 1995, thì vào năm 1996, cha giương cao lá cờ của đảng Dân chủ mini, ra ứng cử nhưng lại thất bại ở khu vực bầu cử Chon no. Năm 1997 chuyển nhà đến sống ở khu Chon No, dường như cha tôi có ý định cắm rễ ở khu Chon No. Mặc dù đúng là cha tôi đã hoạt động chính trị trong một thời gian dài, nhưng thời gian làm nghị sĩ chưa được lâu, cả ở Pusan và Seoul, không đâu có vẻ là nơi cha kiểm soát được nên cha đã dành được sự yêu mến mạnh mẽ ở khu Chon No.

Tại cuộc bầu cử bổ sung của khu vực Chon No vào năm 1998, một lần nữa cha tôi bước vào quốc hội. Sau một thời gian ngắn sống cuộc sống nghị sĩ, bất chấp tất cả, vâng, tất cả những sự phản đối cha tôi đã tuyên bố rằng muốn ra ứng cử ở Pusan. Cả gia đình và những người trợ tá đều phản đối, bạn bè và nhóm ủng hộ cũng phản đối, đảng cũng không tán thành, cha vẫn nói rằng sẽ đi Pusan. Tại sao lại như vậy, đến bây giờ tôi vần nhớ rất rõ những chuyện xảy ra lúc đó.

Tôi cứ thử suy đoán, dường như từ cục diện của kỳ bầu cử tổng thống năm 1997 mà cha tôi quyết định đi Pusan. Một sự kiện chính trị không thể hiểu được đối với cha tôi là sự thống nhất 3 đảng, nhưng đến kỳ bầu cử tổng thống năm 2002, được dự đoán là những người hưởng lợi từ sự thống nhất 3 đảng sẽ đấu tranh nhằm giành quyền lực. Nếu như những người theo việc thống nhất 3 đảng mà thành công hơn những người không theo như cha tôi, thì tôi nghĩ rằng ngay cả chính trị và cả lịch sử nữa cũng bị thay đổi như việc thống nhất 3 đảng. Vì thế, giả sử cha tôi nếu có trúng cử ở Pusan dường như cha cho rằng ít nhất thì cũng có thể tạo được cục diện “Những người hưởng lợi từ việc thống nhất 3 đảng” và “Những người phản đối việc thống nhất 3 đảng”. Thế nhưng, thật đáng tiếc là cả việc đó cũng gặp thất bại.

Sau khi cha tôi thất bại trong cuộc bầu cử ở Pusan, có lần tôi cùng một người bạn than uống rượu tại một quán ăn Trung Hoa. Đó là một người bạn từ hồi học trung học năm thứ 2 xuất thân từ Kyon San Doo, khi được hỏi tại sao vào lúc thống nhất 3 đảng, cha tôi không theo đường lối của cựu tổng thống Kim Young Sam, lại theo tổng thống Kim Dae Jung, tôi đã hết sức sửng sốt. Ngay cả đến bây giờ cha vẫn nhất định không theo những người thuộc chính quyền đã tra tấn con người, nhưng có vẻ như lúc đó những niềm tin đã không còn mang ý nghĩa gì nữa cả.

Khi gặp gỡ mọi người, tôi thường hay dấu cha mình là người như thế nào, cũng bởi vì những người xung quanh phần lớn không mấy quan tâm đến chuyện chính trị, nên tự nhiên nói đến chuyện cuộc đời. Đúng là tôi thường nghe người ta nói xấu về các nhà chính trị,và dù nói xấu cả cha tôi nhưng tôi thường tỏ ra không biết. Tôi thường nhận thấy người ta không hay phủ định việc thống nhất 3 đảng. Dù có nói rằng tình cảm địa phương là căn bệnh mất nước, nhưng dầu sao chăng nữa có rất nhiều người tiếp nhận những tình cảm địa phương đó như là một lẽ tất nhiên. Nghĩ rằng việc cha tôi thay đổi quan điểm về việc thống nhất 3 đảng như là tiếng sét giữa trời quang nhất định không thể tha thứ được, hay trợ giúp cho tình cảm địa phương nhưng trong con mắt của những người bình thường vẫn biểu hiện một dáng vẻ tuyệt đẹp giống như một cú nhảy lên ném rổ của các vận động viên bóng rổ. Tôi không hiểu vì sao mọi người thường nhìn các nhà chính trị như những vận động viên nhưng là con trai, tôi thực sự nghĩ rằng đáng tiếc cho cha.

Bất kể ra sao chăng nữa, dù trong bầu không khí nhất định thắng lợi thì cha lại thất bại trong kỳ bầu cử ở khu Giang Tây thành phố Pusan, cha lại một lần nữa không thể trở thành nghị sĩ quốc hội. Khác với những thất bại ở các kỳ bầu cử trước, lần này cha có vẻ rất thất vọng, sự căng thẳng của mẹ, em gái và tôi cũng tăng lên. Khi cả gia đình đang dọn dẹp sau kỳ bầu cử ở Pusan, tôi đã một mình lên Seoul trước, và do đó tôi đã trông thấy một số lượng lớn khủng khiếp thư từ đến homepage của cha tôi. Quả là lúc đó tôi đã bật khóc, tôi cũng chẳng biết từ lúc nào nữa, viết lên tấm bảng thông báo để chờ hồi âm.

Tôi biết chính xác là sau khi cha tôi thất cử, một cuộc vận động mang tính tự phát có tên là Nosamo đã ra đời. Thực tế là cha tôi có rất nhiều chuyện muốn nói về Nosamo. Từ khi hoạt động chính trị đến nay, hình như cha bắt đầu cảm thấy vui sướng, được yêu mến là bắt đầu từ Nosamo. Cứ mỗi lần có sự vụ hay công việc gì là các hoạt động của Nosamo lại bùng phát, cứ mỗi lần như thế, khi nào cha về nhà là thực lòng muốn nói lời cám ơn các bạn. Những lúc như vậy thì một người chẳng mấy giúp đỡ gì được cha mình cảm thấy rất áy náy. Nhưng cũng không thể thế nào được vì cha cứ cười tôi bảo rằng chỉ cần con yên lặng theo dõi đã là giúp đỡ cha rồi.

Khi cha tôi nhậm chức bộ trưởng bộ Thủy sản - Đại dương vào tháng 8 năm 2000, người vui sướng nhất là mẹ tôi. Theo lời của mẹ thì cha tôi đã từng nói với mẹ rằng kể từ sau khi thi đỗ kỳ thi tư pháp cha mới có dịp vui như thế. Mẹ tôi nói rằng từ xưa tới nay, mẹ chỉ mong mỏi cha trở thành quan chức, nên khi cha bỏ công việc chánh án để chuyển sang làm luật sư, mẹ đã phản đối kịch liệt. Chỉ có một công việc quan chức mà mẹ không hề mong đợi, đó là chức tổng thống. Dù cha biết rằng phải là chỗ dựa cho mẹ nhưng cũng đã nhiều lần cha không làm theo những mong mỏi của mẹ.

Dầu sao chăng nữa, khi suy nghĩ về thời gian làm bộ trưởng, tôi cảm thấy có vẻ như cha rất có hứng thú với công việc. Cha làm việc bận đến nỗi hầu như chúng tôi không có lần nào được gặp cha. Thỉnh thoảng trên báo chí có đăng những bài viết nói về cha kiểu như rằng cha quan tâm đến những vấn đề mang tính chính trị, hay là cha đang chịu đựng công việc của một bộ trưởng chẳng hạn, thì cha thường biểu lộ những phản ứng hoàn toàn không thể lý giải nổi. Nếu nhìn từ chuyện là sau khi cha từ chức bộ trưởng, cha rất hay nói một cách tự hào với tôi là trong thời gian làm bộ trưởng, cha đã thực sự cố gắng hết sức mình (những chuyện mà cha hay kể đầy tự hào như vậy là rất hiếm hoi) thì có thể hiểu được rằng là cha tôi không thể chấp nhận được những bài báo kiểu như vậy.

Từ sau khi cha từ chức bộ trưởng, ngoài vụ những bài báo đó ra hầu như tôi cũng không nhớ chuyện gì đáng kể xảy ra cả. Chỉ cần là một người có quan tâm đến chuyện chính trị một chút thôi, thì có lẽ sẽ hiểu được rõ ràng, nhưng ngoài chuyện nỗ lực để giành thắng lợi trong cuộc bầu cử bổ sung, thì cũng không có chuyện gì đặc biệt cả. Từ trước tới nay, trong gia đình tôi rất ít khi nói đến chuyện chính trị, mà dù có khi nào nói đến chăng nữa, thì chuyện người trong gia đình cũng không có gì khác với chuyện của người khác cả, tức là rất hiếm những chuyện chỉ riêng mình tôi biết, hay là các gì đó gọi là bí mật cả.

Tôi viết bài này vào thời điểm tháng 1 năm 2002. Vài ngày trước đó người ta đã xác định được phương thức của cuộc bầu cử dự bị đảng Dân Chủ, tôi đã đọc trên báo tin là sẽ thực hiện triệt để thể chế bầu cử dự bị. Lần này cha có giành thắng lợi trong cuộc bầu cử dự bị không, và nếu giả sử có qua được cuộc bầu cử này thì có thể chiến thắng trong kỳ bầu cử tổng thống hay không, tôi hoàn toàn không thể biết được. Tôi chỉ hy vọng rằng cha sẽ làm tốt công việc hiện tại, tôi cũng hơi là nếu như kết quả không tốt, thì sau đó cha sẽ làm gì đây.

Thực ra, khi tôi được yêu cầu viết bài này, ý nghĩ nảy ra trong đầu tôi là, đây là một việc quá sức. Hoặc là, vì lý do chính trị gì đó cha bảo tôi viết bài này, tôi lại lo rằng mình có hiểu sai điều gì đó không. Thế nhưng, lý do tôi viết bài này, chẳng phải vì là con trai của một nhà chính trị nào đó cả, chỉ là một người con trai kính trọng và tự hào về người cha mình nên thử viết những chuyện về cha mình mà thôi.

Tôi vốn viết văn kém, trí nhớ lại cũng chẳng được bao nhiêu, thử viết chuyện này chuyện kia, những chuyện viết được chưa ra đâu vào đâu, mà có vẻ như đã hết chuyện để nói rồi. Giả sử rằng câu chuyện này có chỗ nào đó gây hiểu lầm, hay là đã mạo muội, tôi hiểu rõ rằng đó là lỗi của tôi. Và thành thật xin được thứ lỗi trước vì những điều đó. Xin mọi người hãy rộng lượng hiểu cho và tha thứ cho tôi.

Tiểu sử của Roh Moo Hyun

1946: Sinh tại Kinkai, Sinei (ngoại ô Pusan)

1959: Tốt nghiệp tiểu học Taisho (Kinkai, Sinei)

1963: Tốt nghiệp trung học(tương đương với Trung học cơ sở của VN) Kinkai, Sinei

1966: Tốt nghiệp cao đẳng thương nghiệp

1968: Gia nhập quân đội

1971: Hoàn thành nghĩa vụ quân sự

1975: Thi đỗ kỳ thi sát hạch tư pháp lần thứ 17

1977: Nhậm chức thẩm phán toà án địa phương Taida

1978: Từ chức thẩm phán, mở văn phòng luật sư

1981: Qua việc bào chữa trong sự kiện Pusan, sau đó hoạt động với vai trò là luật sư của phong trào nhân quyền

1985: Nhậm chức ủy viên thường vụ Hiệp hội Dân chủ nhân dân thành phố Pusan

1987: Ủy viên chấp hành thường vụ vùng phân khu Pusan của Cuộc vận động nhân dân đấu tranh cho Hiến pháp Dân chủ

1988: Trúng cử nghị sĩ quốc hội khóa 13 (khu Đông Pusan)

1988: Ủy viên của Ủy ban điều tra các hoạt động không trong sạch của nước cộng hòa thứ 5.

Trở thành một ngôi sao tại diễn đàn tranh luận quốc hội

1990: Khi đảng Tự do dân chủ ra đời, phản đối sự thành lập đảng đó, thành lập nên Đảng Dân chủ

1992: Thất bại trong cuộc bầu cử quốc hội lần thứ 14

1993: Ủy viên tối cao Đảng Dân chủ thống nhất (người ít tuổi nhất)

1993: Thành lập tổ chức xã hội có tên là văn phòng nghiên cứu các vấn đề địa phương

1997: Phó chủ tịch Hội nghị chính trị nhân dân mới (Chủ tịch là Kim Dae Jung)

1998: Thắng cử tại cuộc bầu cử quốc hội bổ sung (khu Chonno thành phố Seoul)

2000: Thất bại trong cuộc bầu cử nghị sĩ quốc hội khóa 15 tại Pusan

2000: Fan Club đầu tiên của giới chính trị được thành lập (Nosamo)

2000: Tháng 8, nhậm chức Bộ trưởng Bộ Thủy sản Hải dương

2001: Cố vấn thường vụ Đảng Dân chủ Thiên niên kỷ mới

2002: Tháng 4 Tranh cử vào vị trí ứng cử viên tổng thống của Đảng Dân chủ Thiên niên kỉ mới

2002: Tháng 11 Đăng ký ứng cử viên tổng thống với tư cách là ứng cử viên của liên minh cầm quyền

 (Bài này được đăng lại từ trang blog của Hidetoshi )

Friday, May 15, 2009

GĂP GỠ ĐOÀN ỦY BAN TỰ DO TÔN GIÁO HOA KỲ

Ảnh chụp chung với Đoàn 

GẶP GỠ USCIRF

Đời người ta có được “chín tháng mười ngày” hoài thai. Tôi có “ba tháng mười ngày” trong tù mà tôi thường nói vui là ở “quê ngoại”. 100 ngày để trả nợ cho “tư tưởng dân chủ có từ năm 20 tuổi” như nhận xét của  an ninh thì cũng quả là ngắn.

Theo An ninh thì những điều tôi “Học tập ở NED liên quan mật thiết với bảy tổ chức đảng phái chỉ là cái ngọn” còn cái gốc là “theo đạo”. Một trong những cơ quan mà tôi bị coi là có quan hệ mật thiết chính là - Ủy  ban tự do tôn giáo quốc tế của Hoa Kỳ.

Uỷ Ban tự do tôn giáo của Hoa Kỳ là một cơ quan độc lập, lưỡng Đảng, thành lập vào năm 1998 theo Đạo luật IRFA (Luật công 105-292 ) để giám sát tình hình tự do tôn giáo ở  hải ngoại.  Hồi còn học ở NED, tôi đã một số lần đến thăm Ủy ban, và còn đóng vai trò là phiên dịch cho Đoàn trong một vài cuộc gặp với người Việt.

Để tìm hiểu tình hình tự do tôn giáo, Uỷ ban tự do tôn giáo quốc tế của Hoa Kỳ có các đoàn đi thăm và đánh giá về tình hình tự do của các nước mà họ cho là có vi phạm về tự do tôn giáo.

Khi tôi rời “quê ngoại” khoảng 100 ngày thì Đoàn tự do tôn giáo của Hoa Kỳ đến thăm tôi và đó cũng là lần đầu tiên Đoàn được phép đến thị sát về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Đó là vào  tháng 10 năm 2007. Lần đó Đoàn đã đến thăm tôi tại văn phòng riêng trong khi hàng chục công an với sự hộ tống của cả xe cảnh sát dàn cảnh thị uy bên ngoài. Tôi cảm giác người ta xù lên vì nghĩ rằng có gì đó thật nguy hiểm.

Trong đoàn có người bạn là Scott Flipse – có tình cảm đặc biệt với Người Việt Nam, Ông đã làm đề tài Tiến sỹ về “Di tản nội địa ở Việt Nam sau hiệp đinh Geneva năm 1954” .

Ngay khi xuống xe ông đã ôm tôi thật chặt ngay phía ngoài văn phòng. Tôi ghé sát tai mà nói rằng “họ đang quan sát chúng ta đó”, cậu ấy bảo: “càng tốt Việt Nam và Mỹ là bạn mà”.

Lần đó cuộc gặp diễn ra trong vòng một giờ với những tình cảm thực sự chân thành. Họ quan tâm đến thời gian tôi ở trong tù, đời sống gia đình và những khó khăn tôi gặp phải và hỏi liệu có thể giúp đỡ gì được cho tôi không.

Lần này là lần thứ 2 tôi có buổi gặp gỡ với phái Đoàn về cuộc hẹn ở khách sạn Metropole – Khách sạn lâu đời nhất ở Hà Nội được xây dựng từ năm 1901. Hôm nay trời mưa, tôi đi taxi và có vẻ chỉ có 1 chiếc xe máy nhẹ nhàng đi theo với hai người giữ một khoảng cách khá xa.

Lần này Đoàn đã đến vào Việt Nam 11 và sẽ rời VN vào ngày 22 tháng 5. Đoàn do Phó Chủ tịch là Ông Michael Cromartie – người được Tổng thống Bush bổ nhiệm - làm trưởng đoàn.

Đoàn đã gặp gỡ nhiều giới khác nhau, trong đó có Bộ Trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm và Ban Tôn giáo của Chính Phủ trong đó Chính phủ “vẫn đọc bài diễn văn lần trước”.

Đoàn cũng đã thăm gặp Nhà báo Nguyễn Khắc Toàn, Bác Sỹ Phạm Hồng Sơn.

Đêm qua Đoàn cũng đã đến thăm giáo xứ Thái Hà, gặp gỡ các Cha và toàn bộ 8 nạn nhân bị xét xử trong vụ tranh chấp đất đai tại giáo xứ. Đoàn đã lắng nghe nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động tôn giáo ở Việt Nam nói chung, Thái Hà nói riêng .

Trong một tiếng rưỡi đồng hồ, Đoàn cũng cho biết là hôm qua Đoàn đã đến thăm nhà tù Ba Sao, Thăm cha Nguyễn Văn Lý và Luật sư Nguyễn Văn Đài. Cha Lý vui và nói nhiều vì Ngài bị biệt giam, không có người nói chuyện trong suốt một thời gian dài.

Luật sư Đài trông khỏe mạnh. Cả hai đều có kinh thánh để đọc và một “tờ báo của đảng”. Lúc ra về, tôi gặp chị Khánh ở sảnh của Khách sạn. Đoàn rất bận và cũng có những quan tâm rất cụ thể cho từng người.

Đoàn cũng dự định vào thăm Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Luật sư Lê Trần Luật và một số lãnh đạo tôn giáo khác ở Miền Nam để tìm hiểu kỹ hơn về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam.  

Một thành viên của Đoàn đã nhận xét rằng: Cha Lý và Hòa Thượng Thích Quảng Độ thì bị buộc tội vì những vấn đề về chính trị nhưng khi gặp Ban Tôn giáo chính phủ thì những vị mặc áo Linh Mục và Hòa Thượng đều đứng lên nói những vấn đề hoàn toàn Chính trị, ca ngợi những thành tựu của Chính Phủ.

Tôi cho rằng không có một sự phân biệt rõ ràng giữa tôn giáo và chính trị. Khi người dân bị hạn chế về Quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và quyền tự do báo chí thì điều đó vẫn là một sự hạn chế của tự do tôn giáo. Tôn giáo gắn chặt với các sinh hoạt nhóm cộng đồng và là một phần quan trọng của xã hội dân sự.

Tôi cho rằng một xã hội dân chủ hơn là điều đảm bảo tốt nhất cho Nhân quyền và tự do tôn giáo và việc để cho Đoàn vào Việt Nam là một điều tốt đẹp.

Theo một thành viên trong Đoàn thì Chính phủ của Tổng Thống Obama rất quan tâm đến tình hình Tôn giáo, dân chủ và Nhân quyền nói chung, đặc biệt đất nước Việt Nam nhỏ bé vốn có nhiều duyên nợ với Hoa Kỳ, lại ở một vùng ông Obama rất thân thiết.

Có một kỷ niệm vui là Tiến Sỹ Scott Flipse – người mà Con gái tôi gọi thân mật là “Bác Scott”. Hôm nay Scot tặng “Thái Hà” một bộ quần áo trẻ sơ sinh, Scot mua ở Mỹ và khi mở ra mới biết ở nhãn ghi là “Made In Vietnam”.

Hóa ra có nhiều đang dùng tại Mỹ thực ra đã được làm ở Việt Nam và đang quay trở lại Việt Nam bằng đường “tiểu ngạch”. Hy vọng là giá trị về tự do tôn giáo và nhân quyền – như tôi cảm nhận được ở Mỹ - sẽ sớm thành hiện thực trên quê hương Việt Nam yêu dấu của chúng ta qua những con người và phái đoàn cụ thể có tình yêu với nhân dân Việt Nam. 


Ảnh chụp cùng Ông Michael Cromartie - Trưởng Đoàn


Thursday, May 14, 2009

VIỆT NAM GIỮA CÁC CƯỜNG QUỐC



Mao Trạch Đông và Nixon năm 1972


VIỆT NAM GIỮA CÁC CƯỜNG QUỐC

Luật sư. Lê Quốc Quân

Hai mươi năm hòa bình hình thức

Nước ta coi như  hòa bình từ 1989.

Đó là lúc những đoàn xe tăng cuối cùng của Việt Nam do Liên Xô sản xuất lũ lượt rời khỏi đất nước chùa Tháp sau một thời gian chiếm đóng dài hơn thời gian quân đội Mỹ tham chiến ở Miền Nam Việt Nam.  

Bắt đầu hòa bình là lúc Đảng cộng sản đối mặt với sự khủng hoảng đến tột độ. Viễn cảnh tan rã của đế chế cộng sản lớn nhất hành tinh áp lực mạnh mẽ lên toàn bộ Việt Nam. Khi đó quan hệ với Trung Quốc và Mỹ vẫn căng như dây đàn. Trong Bộ chính trị, kẻ thì hồi hộp người thì lo sợ.

Thế nhưng, những người cộng sản vẫn ngoan cố một cách khéo léo, hạ bệ Trần Xuân Bách, tiếp tục cầm lái con  thuyền Việt Nam thêm 20 năm nữa sau khi người anh cả là Liên Xô tan rã.

Nguồn cảm hứng cho việc tiếp tục độc tài cầm lái là sự đi lên đầy bành trướng của một đàn anh cộng sản khác “Núi liền núi, sông liền sông”.

Khá lên, người đàn anh này thè “lưỡi bò” liếm sạch “mặt tiền” thằng em.

Lịch sử luôn có những khúc quanh của nó ! Hai mươi năm, không dài so với một đời người, ngắn so với một chế độ và chỉ là một tiếng thở dài của tự tình dân tộc Việt Nam.

Trong chiến tranh, máu của các chiến binh Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc đã thấm vào đất Việt Nam ta nên bây giờ đây ta sống ở hiện tại, để hoạch định chiến lược trong tương lai, ta phải hiểu quá khứ, hiểu rằng dân tộc chúng ta bị xô đẩy quẩn quanh giữa các cường quốc.

Qúa khứ chiến tranh và hội đàm mua bán !

Qúa khứ của Việt Nam chúng ta là một quá khứ chiến tranh. Suốt gần 500 năm qua, kể từ thời Hậu Lê năm 1527 và  nhà Mạc cướp ngôi năm 1540, đất nước chúng ta chiến tranh liên miên.

Đầu tiên là cuộc chiến Nam Bắc triều, đến Trịnh Nguyễn phân ranh. Hết phân ranh là Tây sơn-Nhà Nguyễn. Rồi chiến tranh chống Pháp, hết pháp là Mỹ, sau chia cắt là cuộc chiến Campuchia, kết thúc bằng một cuộc chiến biên giới với Trung Quốc vào năm 1979.

 Kẻ đô hộ chúng ta hơn 1000 năm trước lại là kẻ thù sau cùng với chúng ta - những người đồng chí Cộng sản. Cuộc vãi đạn dã man vào hải quân của Việt Nam ở Trường sa năm 1988 là bằng chứng tươi mới nhất về chiến tranh với Trung Cộng.

Trước đó, Trung Quốc và Mỹ đã một lần mặc cả về Việt Nam. Ngày 21/2/1972 - Nixon và Mao gặp nhau mừng rỡ, nâng ly rượu Mao Đài sóng sánh,  quân nhạc cử bài: “Hoa kỳ mỹ lệ”. Họ tuyên bố: “Cầu hữu nghị Mỹ Trung đã được bắc, tương lại thế giới giờ nằm trong tay hai nước chúng ta”.

Sau hội đàm, Trung Quốc chiêu đãi trọng thể với hơn 800 quan khách . Ngày 27 tháng 2 năm 1972 Tuyên cáo chung Trung – Mỹ được ký tại Thượng Hải. Sau đó 11 tháng,  Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết. Mỹ bỏ Nam Việt Nam, Trung Quốc bỏ bắc Việt. Hai thằng lớn ngoảnh mặt đi.

Liên xô thì không. Họ say mê “mở mang nước Chúa”, tiến đánh sang tận Afganistan. Họ tiếp tục viện trợ, giúp đỡ Bắc Việt Nam thống nhất một cách chân thành trong niềm tin tôn giáo cộng sản.

Sau đó, họ tiếp tục gửi quân và chuyển vũ khí để đánh Khơ Me đỏ và xuống cả vùng Đông Nam Á (nếu có thể). Trung Quốc biết rõ âm mưu. Cùng là Cộng sản, nhưng Khơ Me Cộng sản chống Xô viết cộng sản nên Trung Quốc coi họ là lực lượng thích hợp để chống Việt Nam.

Khơ Me đỏ tuyên bố thẳng thừng chỉ có chủ nghĩa cộng sản của mình mới thực còn tất cả là Cộng sản đểu. Để rồi những người theo chủ thuyết cộng sản lại giã nhau tóe lửa. Mìn nổ, máu đỏ ngập những bàn chân “tình nguyện quân” Việt Nam.

Khi “ốc không mang nổi mình ốc”, Liên xô tan rã, đẩy Việt Nam đến sự hoang mang. Họ tự phải hỏi Chủ nghĩa cộng sản là cái gì đây và là ai đây. Là máu, đấu tố và chiến tranh ?. Là Nga, Trung Quốc, Mỹ hay Nhật..?.

Thực tế là không có ! Chỉ có quyền lợi quốc gia và tổ quốc trên hết.

 Ảnh hưởng của Mỹ - Trung hôm nay

Hai mươi năm sau ngày hòa bình hình thức, dù cho người ta dựng cột mốc, đăng ký lãnh hải hay xây vành đai giới tuyến thì cũng không ngăn nổi sức tấn công của biên giới mềm trong xu hướng toàn cầu hóa như vũ bão hiện nay.

Nạn nhân mãn ở Trung Quốc buộc họ phải mở rộng không gian sống xuống phía Nam và thế mạnh của một cường quốc đòi buộc người Mỹ phải hiện diện nhiều nơi ngoài Mỹ.

Đô la với hình Washington tràn ngập các các gia đình Việt Nam. Thậm chí người dân có thể dùng Đô La mua hàng gia dụng giá rẻ của Trung Quốc ở chợ. 

Ở Hà Nội, Sài Gòn Trung tâm dạy học tiếng Trung đông nghẹt người, những giáo viên trẻ viết chữ Hán giản lược nhanh đến mức khó tả, dạy những bài hát tiếng Trung nói về tình yêu nồng nàn theo điệu hip hop, rất đi vào tâm hồn lớp trẻ.

Hàng hóa mang hình chữ Tàu ngập tràn từ ngõ nhỏ đến siêu thị lớn. Giọng oang oang của người Trung Quốc vang  khắp nơi, len lỏi lên tận vùng tây nguyên nơi họ vừa tìm được một nơi mà chắc chắn có thể bắt rễ để sống lâu dài.

Những ngành nghề chất lượng lao động cao như tư vấn, ngân hàng, tài chính,  đào tạo, IT ở Việt Nam đã, đang và sẽ dần dần do các doanh nghiệp Mỹ hoặc có nguồn vốn từ Mỹ xâm nhập và thâu tóm.

Những ngành nghề đơn giản như gia công hàng hóa, mua bán máy nông cụ, hàng hóa giá rẻ, vật dụng tiêu dùng phục vụ người thu nhập thấp ở Việt Nam sẽ dần dần do các Công ty Trung Quốc làm chủ.

Hôm nay ngôi nhà Hợp chủng quốc Hoa Kỳ có cơ hội đón hàng chục ngàn thanh niên Việt Nam sang học tập. Hơn hai triệu người Việt tiếp tục gửi tiền về cho gia đình thường dân ở Việt Nam, nhiều triệu USD của các quan chức đang chảy ngược lại.

Hôm nay Việt Nam là đích đến của các nông dân Trung Quốc, đặc biệt  là các tỉnh lân cận, họ mở nhà hàng, tích cóp từng đồng, mở mang dây chuyền và hỗ trợ phát triển cho cộng đồng  riêng họ ở Việt Nam. Còn quan chức Việt Nam mang cả tài nguyên quốc gia làm quà triều cống thường niên.

Chỉ có con đường dân chủ hóa đất nước !

Buồn vì chịu ảnh hưởng của các nước lớn nhưng chúng ta không được xúc động một cách thiếu logic. Toàn cầu hóa là tất yếu và việc dịch chuyển lao động quốc tế là chuyện bình thường. Quan trọng là chúng ta phải mạnh lên.

Tôi đã từng đề cập về 8 chữ : “Liên Mỹ - Hòa Hoa- Dân tộc –Dân chủ”. Theo tôi, đó chính là kế sách hay nhất cho Việt Nam trong thế kỷ này, cả đối nội và đối ngoại. Bắt đầu từ trong ra ngoài, từ việc việc dân chủ hóa đất nước.

Chỉ có tự do, dân chủ mới thực sự giải phóng chúng ta, mới đem đến cho Việt Nam một sức sống  mới, liên kết được sức mạnh người Việt, quyến rũ được người Mỹ về những giá trị mà họ đang lớn tiếng bảo vệ.

 Chỉ có dân chủ, tự do báo chí, lắng nghe ý kiến của Nhân dân  mới có đối sách thích hợp với Trung Quốc, mới không để những nhà lãnh đạo phản động đi đêm ký tắt những Hiệp ước quan trọng rồi loay hoay như gà mắc tóc.

 Chỉ có dân chủ hóa, những người Việt Nam trên khắp thế giới mới tự tin rằng Việt Nam là trên hết chứ không phải là “chủ nghĩa Cộng sản” hay CNXH, không còn “thế lực thù địch”. Họ mới cùng chung tay xây dựng một Việt Nam mới trong thái bình và thịnh trị.

Chỉ có thực thi dân chủ dựa trên một ý thức dân tộc thì Việt Nam mới thực sự là nơi an toàn, thu hút chất xám, phát triển toàn diện, trở thành người tình của thế giới, người yêu của các cường quốc trong tà áo dài thướt tha.

Khi đó chúng ta mới thực sự mạnh lên. Nhân dân không phải bỏ ra 1,8 tỷ USD cho 6 tàu ngầm hạng Kilo, 500 triệu USD cho 12 “con” SU-30MK  và còn nhiều hơn thế, để mua tàu ngầm, máy bay, vũ trang quân đội, chuẩn bị chiến tranh, gồng mình như con choi choi giữa những cường quốc hiếu chiến mạnh hơn hàng trăm lần.


 

-------Con cò bay lả bay la -----